25/05/2018, 08:53

Những nhân tố tác động tới đường lối đổi mới của Việt Nam

Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ và GoócBachốp. Qua đó có ...

Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ và GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF). Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế.

Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-Chốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc “chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.

Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là 5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong “chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô - Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ “hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới.

Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả thuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả thuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn thực hiện chính sách “không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ) . Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế giới.

Còn ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển Đài Loan...

Trong khu vực Đông Nam á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN, Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam, chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho nhân Campuchia.

Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường, bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.

Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.

Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.

Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.

Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi xưởng công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở thành một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.

Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả giang sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn thương binh, 30 vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn 2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học...

Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã (774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.

Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài. Tính chung trong năm 5 năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối được từ thu và chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã làm cho nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm soát.

Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp luật kỳ cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền, bọn làm ăn phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng giảm lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.

Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày càng phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước.

Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một cách mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp ứng những yêu cầu đó.

Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự nghiệp chung của đất nước.

0