10/01/2018, 19:27
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950)
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950), gồm những phần chính:- Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ- Cuộc chiến đấu ở các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài - Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 và việc đẩy mạnh kháng chiến toàn ...
Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 - 1950), gồm những phần chính:- Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ- Cuộc chiến đấu ở các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài - Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 và việc đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện- Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu – đông năm 1950
I. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ
1. Thực dân Pháp bội ước và tiến công nước ta
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ 06 - 3 - 1946 và Tạm ước 14 - 9 - 1946 với Việt Nam, Chính phủ Pháp đã bội ước:
- Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
- Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, hạ tuần tháng 11- 1946, thực dân Pháp khiêu khích tiến công ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn.
- Ở Hà Nội, trong các ngày 15 và 16 - 12, quân Pháp bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi. Chúng đốt nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính, gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh. Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp gửi tôi hậu thư đòi chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20 - 12 - 1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
- Ngày 12 - 12 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
- Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, Hội nghị bất thường mở rộng của Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động cả nước kháng chiến.
- Đêm 19 - 12 - 1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Ngày 21 - 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh.
- Tháng 3 - 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
II. Cuộc chiến đấu ở các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
1. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
- Ở Hà Nội:
+ Khoảng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, cuộc chiến đấu bắt dầu. Nhân dân Hà Nội đã đặt các chướng ngại vật ra đường phố để gây cản trở cho việc đi lại của quân Pháp. Trung đoàn Thủ đô được thành lập và tiến đánh những trận quyết liệt ở Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, Nhà Bưu điện v.v..
+ Đến ngày 17 - 02 - 1947, quân ta rút khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ an toàn.
- Kết quả:
+ Quân dân Hà Nội đánh gần 200 trận, giết và làm bị thương hàng nghìn tên địch, phá huỷ hàng chục xe cơ giới, 5 máy bay.
+ Giam chân địch trong thành phố, đảm bảo cho Trung ương Đảng, Chính phủ rút về chiến khu an toàn.
- Ở các đô thị khác:
Ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng v.v.. quân ta bao vây, tiến công tiêu diệt nhiều tên địch.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tạo điều kiện cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
2. Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
- Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn thể....lên tới Việt Bắc.
- Nhân dân ở các đô thị nhanh chóng tản cư ra các vùng hậu phương và tiến hành phá hoại nhà cửa, đường sắt, cầu cống, không cho địch sử dụng. Với những khẩu hiệu “Vườn không nhà trống”, “Tản cư cũng là kháng chiến”, “Phá hoại để kháng chiến”. Đảng, Chính phủ lãnh đạo và tổ chức nhân dân cả nước xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt.
- Về chính trị, các ủy ban hành chính chuyển thành ủy ban kháng chiến hành chính để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc: mở rộng Mặt trận, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt).
- Về kinh tế, Chính phủ đề ra các chính sách nhằm duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực.
- Về quân sự, Chính phủ quy định mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi được tuyển chọn tham gia các lực lượng chiến đấu.
- Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển. Trường phổ thông các cấp được xây dựng.
III. Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 và việc đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện
1. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947
* Diễn biến:
- Tháng 3 - 1947, Chính phủ Pháp cử Bôlaéc sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ. Bôlaéc vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc nhằm kết thúc nhanh chiến tranh.
- Thực dân Pháp huy động 12000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương tiến công Việt Bắc từ ngày 07 - 10 - 1947.
+ Sáng sớm ngày 07 - 10 - 1947, một binh đoàn quân dù đổ xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới...
+ Cùng ngàv, binh đoàn bộ binh từ Lạng Sơn theo đường số 4 đánh lên Cao Bằng, rồi vòng xuống Bắc Kạn theo Đường số 3 bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.
+ Ngày 09 - 10 - 1947, một binh đoàn hỗn hợp bộ binh và thủy binh từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên Quang, rồi Chiêm Hoá, đánh Đài Thị, bao vây Việt Bắc từ phía tây.
- Khi vừa tiến công Việt Bắc, Đảng ta đã có chỉ thị “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”.
Trên khắp các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch.
- Ở Bắc Kạn, quân ta chủ động bao vây và tiến công địch ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông, buộc Pháp phải rút lui khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã cuối tháng 11 - 1947.
- Ở mặt trận hướng đông, quân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4, tiêu biểu là trận phục kích ở đèo Bông Lau (30 - 10 - 1947).
- Ở mặt trận hướng tây, quân ta chặn đánh địch nhiều trận trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan Hùng, Khe Lau.
* Kết quả:
- Sau hơn hai tháng, cuộc chiến đấu giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc ngày 19 - 12 - 1947.
- Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6000 địch, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
- Pháp tuy vẫn còn chiếm đóng một số vị trí trên đường số 3, số 4; nhưng không thực hiện được ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh”.
* Ý nghĩa:
- Với chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược chuyển sang giai đoạn mới.
- Buộc Pháp phải thay đổi chiến lược chiến tranh ở Đông Dương, từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”.
2. Cuộc kháng chiến của ta sau thắng lợi ở Việt Bắc
Sau chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, Đảng và Chính phủ ta chủ trương củng cố chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
- Trên mặt trận chính trị:
+ Đầu năm 1949, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội dồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chinh các cấp.
+ Tháng 6 - 1949, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thống nhát thành Mặt trận Liên Việt.
- Trên mặt trận quân sự: bộ đội chủ lực đi vào vùng sau lưng địch gây cơ sở kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích.
- Trên mặt trận kinh tế: Tháng 7 - 1949 thực hiện giảm tô 25%; tháng 7 - 1950, chia lại ruộng đất công và cấp ruộng đất vắng chủ cho nông dân.
- Trên mặt trận văn hoá, giáo dục: Tháng 7 - 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông. Hệ thống trường đại học và trung học được xây dựng.
IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu – đông năm 1950
1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến
* Về phía ta:
- Ngày 01 - 10 - 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời.
- Ngày 18 - 01 - 1950, Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ngày 30 - 01 - 1950 Chính phủ Liên Xô lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
* Về phía dịch:
- Ngày 13 - 5 - 1949, với sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. Với kế hoạch Rơve, Mĩ từng bước can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
- Ngày 07 - 02 - 1950, Mĩ công nhận Chính phủ bù nhìn Bảo Đại; ngày 08 - 5 - 1950, Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp, nhằm từng bước nắm quyền điều khiển chiến tranh ở Đông Dương.
- Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6 - 1949 Pháp đưa nhiều vũ khí mới vào Việt Nam, tập trung quân ở Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc, tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông - Tây”. Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch tiến công lên Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
2. Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950
а. Mục đích mở chiến dịch của ta:
Để khắc phục khó khăn đó, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên bước mới, tháng 6 - 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm:
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
- Mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới dân chủ.
- Mở rộng và cùng cố căn cứ địa Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
b. Diễn biến của chiến dịch:
- Sáng sớm ngày 16 - 9 - 1950, các đơn vị bộ đội ta nổ súng đánh vào vị trí Đông Khê và đến ngày 18 - 9, đả giành thắng lợi.
- Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập.
- Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lên Đông Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút bớt chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh dịch nhiều nơi trên đường số 4, khiến cho hai cánh quân này không gặp nhau được.
- Quân Pháp hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng ngày 22 - 10 - 1950.
c. Kết quả:
- Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 địch, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh.
- Giải phóng tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập dài 750 km với 35 vạn dân; chọc thủng “hành lang Đông - Tây” của Pháp. Kế hoạch Rơve bị phá sản.
d. Ý nghĩa:
- Với chiến thắng Biên giới, con đường nối nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông.
- Quân đội ta đã trưởng thành, giành được thế chủ động trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
1. Thực dân Pháp bội ước và tiến công nước ta
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ 06 - 3 - 1946 và Tạm ước 14 - 9 - 1946 với Việt Nam, Chính phủ Pháp đã bội ước:
- Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
- Ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, hạ tuần tháng 11- 1946, thực dân Pháp khiêu khích tiến công ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn.
- Ở Hà Nội, trong các ngày 15 và 16 - 12, quân Pháp bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi. Chúng đốt nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính, gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh. Ngày 18 - 12 - 1946, Pháp gửi tôi hậu thư đòi chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20 - 12 - 1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
- Ngày 12 - 12 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến.
- Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, Hội nghị bất thường mở rộng của Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động cả nước kháng chiến.
- Đêm 19 - 12 - 1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
- Ngày 21 - 12 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh.
- Tháng 3 - 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
II. Cuộc chiến đấu ở các đô thị và việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
1. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
- Ở Hà Nội:
+ Khoảng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, cuộc chiến đấu bắt dầu. Nhân dân Hà Nội đã đặt các chướng ngại vật ra đường phố để gây cản trở cho việc đi lại của quân Pháp. Trung đoàn Thủ đô được thành lập và tiến đánh những trận quyết liệt ở Bắc Bộ phủ, chợ Đồng Xuân, Nhà Bưu điện v.v..
+ Đến ngày 17 - 02 - 1947, quân ta rút khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ an toàn.
- Kết quả:
+ Quân dân Hà Nội đánh gần 200 trận, giết và làm bị thương hàng nghìn tên địch, phá huỷ hàng chục xe cơ giới, 5 máy bay.
+ Giam chân địch trong thành phố, đảm bảo cho Trung ương Đảng, Chính phủ rút về chiến khu an toàn.
- Ở các đô thị khác:
Ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng v.v.. quân ta bao vây, tiến công tiêu diệt nhiều tên địch.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tạo điều kiện cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
2. Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
- Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn thể....lên tới Việt Bắc.
- Nhân dân ở các đô thị nhanh chóng tản cư ra các vùng hậu phương và tiến hành phá hoại nhà cửa, đường sắt, cầu cống, không cho địch sử dụng. Với những khẩu hiệu “Vườn không nhà trống”, “Tản cư cũng là kháng chiến”, “Phá hoại để kháng chiến”. Đảng, Chính phủ lãnh đạo và tổ chức nhân dân cả nước xây dựng lực lượng kháng chiến về mọi mặt.
- Về chính trị, các ủy ban hành chính chuyển thành ủy ban kháng chiến hành chính để thực hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc: mở rộng Mặt trận, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt).
- Về kinh tế, Chính phủ đề ra các chính sách nhằm duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực.
- Về quân sự, Chính phủ quy định mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi được tuyển chọn tham gia các lực lượng chiến đấu.
- Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển. Trường phổ thông các cấp được xây dựng.
III. Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947 và việc đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện
1. Chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947
* Diễn biến:
- Tháng 3 - 1947, Chính phủ Pháp cử Bôlaéc sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ. Bôlaéc vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc nhằm kết thúc nhanh chiến tranh.
- Thực dân Pháp huy động 12000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương tiến công Việt Bắc từ ngày 07 - 10 - 1947.
+ Sáng sớm ngày 07 - 10 - 1947, một binh đoàn quân dù đổ xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới...
+ Cùng ngàv, binh đoàn bộ binh từ Lạng Sơn theo đường số 4 đánh lên Cao Bằng, rồi vòng xuống Bắc Kạn theo Đường số 3 bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.
+ Ngày 09 - 10 - 1947, một binh đoàn hỗn hợp bộ binh và thủy binh từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên Quang, rồi Chiêm Hoá, đánh Đài Thị, bao vây Việt Bắc từ phía tây.
- Khi vừa tiến công Việt Bắc, Đảng ta đã có chỉ thị “Phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”.
Trên khắp các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch.
- Ở Bắc Kạn, quân ta chủ động bao vây và tiến công địch ở Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông, buộc Pháp phải rút lui khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã cuối tháng 11 - 1947.
- Ở mặt trận hướng đông, quân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4, tiêu biểu là trận phục kích ở đèo Bông Lau (30 - 10 - 1947).
- Ở mặt trận hướng tây, quân ta chặn đánh địch nhiều trận trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan Hùng, Khe Lau.
* Kết quả:
- Sau hơn hai tháng, cuộc chiến đấu giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc ngày 19 - 12 - 1947.
- Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6000 địch, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
- Pháp tuy vẫn còn chiếm đóng một số vị trí trên đường số 3, số 4; nhưng không thực hiện được ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh”.
* Ý nghĩa:
- Với chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược chuyển sang giai đoạn mới.
- Buộc Pháp phải thay đổi chiến lược chiến tranh ở Đông Dương, từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh lâu dài”.
2. Cuộc kháng chiến của ta sau thắng lợi ở Việt Bắc
Sau chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, Đảng và Chính phủ ta chủ trương củng cố chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
- Trên mặt trận chính trị:
+ Đầu năm 1949, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội dồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chinh các cấp.
+ Tháng 6 - 1949, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thống nhát thành Mặt trận Liên Việt.
- Trên mặt trận quân sự: bộ đội chủ lực đi vào vùng sau lưng địch gây cơ sở kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích.
- Trên mặt trận kinh tế: Tháng 7 - 1949 thực hiện giảm tô 25%; tháng 7 - 1950, chia lại ruộng đất công và cấp ruộng đất vắng chủ cho nông dân.
- Trên mặt trận văn hoá, giáo dục: Tháng 7 - 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông. Hệ thống trường đại học và trung học được xây dựng.
IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu – đông năm 1950
1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến
* Về phía ta:
- Ngày 01 - 10 - 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời.
- Ngày 18 - 01 - 1950, Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ngày 30 - 01 - 1950 Chính phủ Liên Xô lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
* Về phía dịch:
- Ngày 13 - 5 - 1949, với sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. Với kế hoạch Rơve, Mĩ từng bước can thiệp sâu và “dính líu” trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
- Ngày 07 - 02 - 1950, Mĩ công nhận Chính phủ bù nhìn Bảo Đại; ngày 08 - 5 - 1950, Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp, nhằm từng bước nắm quyền điều khiển chiến tranh ở Đông Dương.
- Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6 - 1949 Pháp đưa nhiều vũ khí mới vào Việt Nam, tập trung quân ở Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc, tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông - Tây”. Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch tiến công lên Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
2. Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950
а. Mục đích mở chiến dịch của ta:
Để khắc phục khó khăn đó, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên bước mới, tháng 6 - 1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm:
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
- Mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới dân chủ.
- Mở rộng và cùng cố căn cứ địa Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
b. Diễn biến của chiến dịch:
- Sáng sớm ngày 16 - 9 - 1950, các đơn vị bộ đội ta nổ súng đánh vào vị trí Đông Khê và đến ngày 18 - 9, đả giành thắng lợi.
- Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập.
- Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lên Đông Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về; đồng thời cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút bớt chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh dịch nhiều nơi trên đường số 4, khiến cho hai cánh quân này không gặp nhau được.
- Quân Pháp hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng ngày 22 - 10 - 1950.
c. Kết quả:
- Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 địch, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh.
- Giải phóng tuyến biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập dài 750 km với 35 vạn dân; chọc thủng “hành lang Đông - Tây” của Pháp. Kế hoạch Rơve bị phá sản.
d. Ý nghĩa:
- Với chiến thắng Biên giới, con đường nối nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông.
- Quân đội ta đã trưởng thành, giành được thế chủ động trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.