10/01/2018, 19:27

Bước đầu phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953)

Bước đầu phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953), gồm các phần chính:- Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương- Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (02- 1951)- Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt- Những chiến dịch tiến công giữ vững quyền ...

Bước đầu phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1951 – 1953), gồm các phần chính:- Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương- Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (02- 1951)- Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt- Những chiến dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường

I. Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương
1. Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương
- Từ tháng 5 - 1949, Mĩ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương.
- Ngày 23 - 12 - 1950, Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương.
- Tháng 9 - 1951, Mĩ kí với Bảo Đại Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt - Mĩ nhằm trực tiếp ràng buộc Chính phủ Bảo Đại vào Mĩ.
 
2. Kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi
- Ngày 06 - 12 - 1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ Lát đơ Tátxinhi làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Đờ Lát đơ Tátxinhi đề ra kế hoạch mới nhằm kết thúc nhanh chiến tranh.
- Nội dung của kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi gồm 4 điểm chính:
+ Gấp rút tập trung quân Âu - Phi nhằm xây dựng một lực lượng cơ động chiến lược mạnh, đồng thời ra sức phát triển ngụy quân để xây dựng “quân đội quốc gia”.
+ Xây dựng phòng tuyến công sự bằng xi măng cốt sắt, thành lập “vành đai trắng” bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm ngăn chặn quân chủ lực của ta và kiểm soát ta đưa nhân tài, vật lực ra vùng tự do.
+ Tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định, lấn chiếm, vơ vét sức người sức của của nhân dân ta để tăng cường lực lượng của chúng.
+ Đánh phá hậu phương của ta bằng biệt kích, thổ phỉ, gián điệp, kết hợp oanh tạc bằng phi pháo với chiến tranh tâm lí, chiến tranh kinh tế.
 
II. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (02- 1951)
1. Hoàn cảnh
Từ ngày 11 đến 19 - 02 - 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Vĩnh Quang - Chiêm Hoá (Tuyên Quang).
 
2. Nội dung Đại hội
Đại hội thông qua hai bản báo cáo quan trọng:
- Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh oanh liệt từ ngày ra đời, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.
- Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày, nêu rõ nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta.
- Đại hội quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai.
- Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều Lệ mới; Quyết định xuất bản báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng.
- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, Hồ Chí Minh được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
 
3. Ý nghĩa:
Đại hội lần thứ II là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta, là “Đại hội kháng chiến thắng lợi”.
 
III. Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt
1. Về chính trị
- Từ ngày 03 đến ngày 07 - 3 - 1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành một mặt trận duy nhất, lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt).
- Ngày 11 - 3 - 1951, thành lập Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào nhằm tăng cường hơn nữa tình đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương.
- Ngày 01 - 5 - 1952, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất đã tổng kết, biểu dương thành tích của phong trào thi đua ái quốc.
 
2. Về kinh tế
Năm 1952, Chính phủ đề ra cuộc vận động sản xuất và thực hành tiết kiệm. Cuộc vận động đã lôi cuốn mọi ngành, mọi giới tham gia.
- Sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp về cơ bản đáp ứng nhu cầu về công cụ sản xuất những mặt hàng thiết yếu của đời sống.
- Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ đề ra những chính sách nhằm chấn chỉnh chế độ thuế khoá, xây dựng nền tài chính, ngân hàng, thương nghiệp.
- Để bồi dưỡng sức dân, nhất là nông dân, đầu năm 1953 Đảng và Chính phủ quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất.
- Từ tháng 4 - 1953 đến tháng 7 - 1954, ta thực hiện 5 đợt giảm tô và một đợt cải cách ruộng đất.
 
3. Về văn hoá, giáo dục, y tế
- Ta tiếp tục cuộc cải cách giáo dục (từ năm 1950) thực hiện theo ba phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất, gắn nhà trường với đời sống xã hội.
- Văn nghệ sĩ hăng hái thâm nhập mọi mặt của đời sống, chiến đấu và sản xuất, hưởng ứng lời dạy của Hồ Chí Minh “Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến”.
- Công tác vận động vệ sinh phòng bệnh, thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan ngày càng có tính chất quần chúng rộng lớn.
- Công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng khắp nơi.
 
IV. Những chiến dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường
1. Các chiến dịch ở Trung du và đồng bằng Bắc Bộ (cuối năm 1950 đến giữa năm 1951)
- Trong thời gian từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1951, quân ta liên tục mở ba chiến dịch: chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung du), Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Chiến dịch đường số 18), Chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Hà - Nam - Ninh).
- Trên đây là những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên của bộ đội chủ lực ta đánh vào phòng tuyến kiên cố của Pháp ở Trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng do địa bàn chiến dịch không thuận lợi cho ta, mà có lợi cho địch việc phát huy ưu thế về binh khí và kĩ thuật và cơ động, nên kết quả chiến đấu bị hạn chế.
- Với phương châm chiến lược “đánh chắc thắng” và phương hướng chiến lược “tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu” ta chủ trương mở những chiến dịch tiếp theo ở rừng núi.
 
2. Chiến dịch Hoà Bình đồng - xuân năm 1951 - 1952
- Ngày 09 - 11 - 1951, Đờ Lát đơ Tátxinhi sử dụng một lực lượng quân cơ động lớn tiến đánh Chợ Bến; đến ngày 14 - 11 - 1951, tiến đánh Hoà Bình.
- Từ giữa tháng 11 - 1951 đến cuối tháng 02 - 1952, ta mở chiến dịch phản công địch ở Hoà Bình.
- Chiến dịch Hoà Bình kết thúc sau hơn ba tháng (từ 14 - 11 - 1951 đến ngày 25 - 02 - 1952).
- Kết quả:
+ Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 22000 tên địch.
+ Ta giải phóng hoàn toàn khu vực Hoà Bình.
Ý nghĩa: Thắng lợi của chiến dịch Hoà Bình là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến đấu phối hợp giữa chiến trường chính với chiến trường cả nước.
 
3. Chiến dịch Tây Bắc thu - đông 1952
- Từ ngày 14 - 10 - 1952 đến ngày 10 - 12 - 1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái.
- Kết thúc chiến dịch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 13000 địch, giải phóng 28500 km2 với hơn 25 vạn dân, gồm toàn tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện ở Lai Châu, hai huyện ở Yên Bái, phá một phần âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của địch.
 
4. Chiến dịch Thượng Lào xuân - hè 1953
- Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng Chính phủ kháng chiến Lào thỏa thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.
- Chiến dịch đã diễn ra từ ngày 08 - 4 - 1953 đến ngày 18 - 5 - 1953. Trong hơn 1 tháng chiến đấu, liên quân Việt - Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu 2800 địch; giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với trên 30 vạn dân.
Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, từ năm 1951 dến năm 1953, ở các chiến trường Trung Bộ và Nam Bộ, quân dân ta dã tận dụng các hình thức chiến tranh du kích, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều tổ chức tề ngụy, nhiều cơ sở kinh tế của chúng.
0