Phân tích bài ca dao: “Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Có thể nói thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh biết bao nhiêu. Và còn có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Hình ảnh một nàng Kiều gian truân, nàng đã phải ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Đó chính là một nàng Vũ Nương chịu hàm oan ...
Có thể nói thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh biết bao nhiêu. Và còn có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Hình ảnh một nàng Kiều gian truân, nàng đã phải ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Đó chính là một nàng Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn đó bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Và cho đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi dường như đã trở thành thông lệ. Cho nên họ đã phải than ...
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Và chính những lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như sợi khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.
Những câu ca dao dường như chính là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, những câu ca dao đó như đã đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Ta như thấy được các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, và cũng đã thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng và có phần yếu đuối “Thân em”. Có thể thấy rằng từ “Thân” như cũng đã gợi nên một cảm giác thật là nhỏ nhoi, yếu đuối. Ta như cũng đã thấy được người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng “thân em”. Dường như chính thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì cũng đã đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Đại thi hào Nguyễn Du thương xót thốt lên “Đau đớn thay phận đàn bà” và tác giả Tú Xương dường như cũng đã thổn thức khi viết về người vợ của mình là bà Tú “lặn lội thân cò khi quãng vắng". Còn trong những ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tưởng như tấm lụa đào. Sử dụng biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Hình ảnh tấm lụa đào lại như đã mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ xưa kia vậy. Và tấm lụa như giúp ta liên tưởng lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng, ta như có thể thấy được đúng với hình ảnh người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, những người phụ nữ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Có thể thấy tấm lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Có lẽ chính vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:
Ta như cũng thấy được hình ảnh tấm lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Và liệu rằng ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ dường như không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Người phụ nữ luôn bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, và cũng không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày người phụ nữ cũng như tự hỏi cuộc đời mình sẽ vào tay ai. Một gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Chúng ta vẫn còn nhớ một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Và dường như họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia như lại không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Và ngay cả trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, và dường như cũng chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn với việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Và dường như tấm lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Có thể thấy rằng câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó dường như cũng đã tạo cho người đọc một cảm giác như chứa biết bao niềm xót xa. Cầu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đời người con gái.
Dường như toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó cũng đã được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến. Và có thể khẳng định rang không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên dường như lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao đặc sắc và chất chứa biết là một sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lời từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Những giọt nước mắt đã chảy. Có thể nhận thấy những câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận.
Dễ dàng nhận thấy chính với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Người đọc như tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, nó như cũng như đang ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của tấm lựa đào đang phất phới giữa chợ. Có biết bao nhiêu câu hát than thân đắng cay tủi cực của người phụ nữ được sáng tác và cũng đã được lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như những nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu… Và cũng chính vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giới nữ. Dường như những người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình. Và đó chính là những lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Và tất cả cũng như đã tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác và cũng từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Thân phận của người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Thật không sai khi chính số phận của họ như tấm lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trên thật đặc sắc là lời than thân yếu ớt. Và phải chăng chính người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:
Những câu ca dao như chất chứa biết bao cảm xúc, đó chính là tâm trạng, nỗi lòng của chính những người phụ nữ xưa. Người phụ nữ xưa họ phải chịu biết bao những hủ tục, những định kiến không được quyền bình đẳng luôn là những câu hát đến nghẹn lòng, và câu ca dao trên là một câu hát như vậy.