23/05/2018, 09:36
Nho giáo?
(儒教), còn gọi là hay là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn ...
(儒教), còn gọi là hay là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay nho sinh.

Tranh vẽ của Nhật Bản mô tả Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo. Dòng chữ trên cùng ghi "Nhất đại tông sư"
Quá trình hình thành và phát triển
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.
Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ 4, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Nho giáo nguyên thủy
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Đức Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.
Thời Xuân Thu, Đức Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Đức Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nho giáo bị biến thành tôn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Mục tiêu của Nho giáo là phát huy tính thiện của con người, khiến người dân biết bỏ ác theo thiện, giúp mọi người đạt đến trình độ đạo đức cao nhất. Để làm được điều này mỗi người phải không ngừng rèn luyện nhân cách và đạo đức của bản thân. Sách Đại Học viết: "Đạo học lớn cốt để phát huy đức sáng, đức tốt đẹp của con người, đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác theo thiện, khiến mọi người đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất. Có hiểu được phải đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất thì mới kiên định chí hướng. Chí hướng kiên định rồi, tâm mới yên tĩnh. Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc mới có thể chu toàn. Suy nghĩ sự việc chu toàn rồi, mới có thể xử lý, giải quyết công việc được thỏa đáng. Vạn vật đều có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Vạn sự đều có bắt đầu và kết thúc. Biết làm cái gì trước cái gì sau, tức là đã tiếp cận nguyên tắc của đạo rồi.".
Nho giáo chủ trương giáo hóa mọi tầng lớp trong xã hội từ bậc quân vương đến kẻ thứ dân sao cho ai ai cũng thấm nhuần đạo học của thánh hiền, phát huy tính thiện sẵn có của bản thân, tự mình sửa đổi, rèn luyện cho tốt đẹp hơn. Nho giáo khuyến khích người có học dạy cho người ít học, người có đạo đức cảm hóa kẻ vô đạo, cải tạo xã hội, đem văn minh truyền bá khắp nơi. Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở được.". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa". Đây là tư tưởng nhập thế của Nho gia, khác với tư tưởng xuất thế lánh đời của Phật gia hay Đạo gia. Khổng Tử nói: "Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi. Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa.".
Thật ra, tính chất tôn giáo của Nho giáo rất mờ nhạt so với những tôn giáo khác, những lời dạy của Nho giáo không phải là từ thánh kinh mà được đúc kết từ chính những sự kiện trong lịch sử hoặc từ những tấm gương có thật trong cuộc sống. Khổng Tử nói "Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác. Ta tin tưởng và hâm mộ văn hóa cổ. Ta trộm ví mình như Lão Bành.". Nho giáo khuyên thế hệ sau cần biết học hỏi những thành công và tránh lặp lại những thất bại của thế hệ trước, là một học thuyết hướng dẫn về quan hệ xã hội và tu dưỡng bản thân.
Tống Nho
Phong trào phục hưng Nho giáo thời hiện đại
Đến thế kỷ 20, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ 21, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á.
Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Trong buổi Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Hàn Quốc 2010, một số báo cáo ghi nhận "mặt trái của quá trình Tây phương hóa (nói cách khác là hiện đại hóa) đã làm cho xã hội Đông Á mất dần tôn ti trật tự, tinh thần cộng đồng và đoàn kết xã hội. Lớp trẻ dần chạy theo những thứ hào nhoáng của văn minh hiện đại mà bỏ xa dần các quan niệm hiếu nghĩa, trung chính, tiết độ". Các báo cáo này nhấn mạnh giá trị tinh thần của Nho giáo sẽ là công cụ hữu hiệu nhằm khôi phục lại giá trị đạo đức của xã hội.

Học viện Nho giáo tại thành phố Andong, Hàn Quốc
Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí 26.000 nhân dân tệ cho một khóa học về đạo đức Nho gia, Đại học Phục Đán thu mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí rất cao. Từ 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Tại Hàn Quốc, rất nhiều người nhận thấy rõ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc đang mất dần đi. Sau cuộc chiến liên Triều 1950-1953, Hàn Quốc áp dụng hệ thống giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục phương Tây, Nho giáo bị công kích và bị coi là lỗi thời. Ông Pak Seok-hong nhấn mạnh sự sai lầm của hệ thống giáo dục đó: việc quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán đã chiếm chỗ của các môn học như đạo đức và lịch sử. Ông thấy đất nước "đang biến thành vương quốc đầy súc vật": người trẻ chửi người già trên tàu, những đứa trẻ tự tử để khỏi bị bắt nạt... Sự hòa hợp, kính trọng người cao tuổi và lòng trung thành với Tổ quốc - những đức tính đó nay đã phai nhạt trong giới trẻ Hàn Quốc. Pak Seok-hong nói: "Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ. Chúng ta phải khôi phục lại nó và các Seowon (học viện Nho giáo) là nơi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời".

Học sinh tham gia ngoại khóa tại một Học viện Nho giáo ở Hàn Quốc
Hiện nay, số lượng học sinh Hàn Quốc đến các học viện Nho giáo để học tập ngoại khóa ngày càng tăng, lên tới hàng trăm ngàn học sinh mỗi năm. Tại đây, học sinh được dạy những lễ giáo đạo đức từ lâu đã không còn xuất hiện tại trường học, từ việc ăn tối, uống trà đến việc thưa chuyện lễ phép với cha mẹ. Theo ông Pak Sung-jin - giám đốc điều hành của Hiệp hội Seowon quốc gia Hàn Quốc, có khoảng 150 học viện Nho giáo ở khắp Hàn Quốc đã mở trở lại các chương trình ngoại khóa tương tự. Ông tin rằng người Hàn Quốc đương đại cần từ bỏ cách nghĩ thiển cận coi Nho giáo là "lỗi thời" và cần nghiêm túc học hỏi lại nhiều giá trị tinh thần, cách đối nhân xử thế từ xã hội xưa.
Đại diện cho học giả Hàn Quốc, giáo sư An Bỉnh Chu, Đại học Thành Quân Quán đã nêu lên lời cảnh báo: "Ngày nay, xã hội đầy tiếng kêu cứu phản ánh nỗi lo lắng về sự hoang tàn của nhân tâm. Môi trường bị ô nhiễm, luân lý bị suy đồi, con người phơi trần nỗi khát khao truy cầu lợi ích và dục vọng. Nội tâm con người hoang tàn, giá lạnh. Quan hệ giữa người và người chỉ còn là cạnh tranh vì lợi ích. Tất cả loài người đang đứng trước nguy cơ diệt vong". Và chính từ những báo động trên, ông đã nêu lên nên trở lại những nguyên lý đạo đức cuộc sống mà Lý Hoảng (1501-1570), đại sư Nho gia Hàn Quốc đã từng nhắc nhở trong vấn đề tâm học đạo đức. Ở hội nghị quốc tế "Nho giáo với xã hội tương lai" ở An Đông - Hàn Quốc (10-2001), các giáo sư Pháp, Nga, Mỹ, Anh v.v... đều có ý muốn nghiên cứu tư tưởng Nho giáo nhằm tìm con đường giải quyết những bế tắc trong quan hệ con người, xã hội và đặc biệt là gia đình ở phương Tây trong giai đoạn hiện tại. Họ đều đề cao đạo đức "Nhân", "Lễ", "Nghĩa" của Nho giáo.
Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng triệu USD cho hai chương trình nghiên cứu và biên soạn Nho tạng tại Đại học Nhân dân và Đại học Bắc Kinh. Bộ Nho tạng tinh hoa của Đại học Bắc Kinh với tổng số 500 tập dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Hai chương trình biên soạn Nho tạng nói trên là một hoạt động quy mô lớn chưa từng có để hiệu chỉnh và kết tập điển tịch Nho học lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời đây cũng là một lần tổng kiểm kê di sản điển tịch Nho học trên quy mô toàn thế giới. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai đại học hàng đầu là Đại học Seoul và Đại học Tokyo cũng đều đã thành lập các trung tâm biên soạn Nho tạng riêng với kế hoạch hoạt động quy mô lớn. Trong xu hướng nghiên cứu Nho giáo đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, nghiên cứu kinh điển Nho gia có vị trí đặc biệt quan trọng.
Nội dung cơ bản
Tổ chức xã hội
Học thuyết về quản lý quốc gia và làm lợi cho dân của Nho giáo là một phần của truyền thống văn hóa Trung Quốc rất sâu sắc. Nó đã thiết lập cho mình những lý tưởng đạo đức và hệ thống giá trị tiêu chuẩn xác lập nền tảng cho xã hội Đông Á trong hàng ngàn năm. Nho giáo giúp các xã hội này có tính tổ chức cao, duy trì trật tự xã hội, giúp gìn giữ các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội ở một mức khá cao, giúp xã hội văn minh và ổn định lâu dài. Nho giáo tiến hành tất cả những điều đó không phải bằng vũ lực mà bằng chủ trương giáo dục toàn diện từ vua quan đến nhân dân để mỗi người đều tự giác thực hiện tùy theo vai trò của mình, đó cũng là lý do tại sao những nước sùng đạo Nho đều rất coi trọng giáo dục. Sách Đại Học có câu: "Làm vua thì hết mình thực hiện đức nhân. Làm bề tôi thì hết mình thực hiện đức kính. Làm con thì hết mình thực hiện đức hiếu. Làm cha thì hết mình thực hiện đức từ. Cùng người trong nước quan hệ với nhau phải hết mình thực hiện đức tín."
Trong thế giới quan Nho giáo, cả 3 yếu tố Quốc gia - Gia đình - Cá nhân đều có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nho giáo xem cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu thành nên gia đình và xã hội. Mỗi cá nhân có đức hạnh tốt thì gia đình, xã hội sẽ tốt và ngược lại.
"Cái căn bản của thiên hạ là quốc gia
Cái căn bản của quốc gia là gia đình
Cái căn bản của gia đình là thân mình vậy."
Sách Đại Học viết "Muốn trị quốc tốt trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình. Người trong gia đình, gia tộc mình mà không giáo dục được thì sao có thể giáo dục được người khác... Một nhà thực hiện nhân ái có thể dấy lên cả nước một phong trào nhân ái. Một nhà thực hiện khiêm nhường, có thể dấy lên cả nước một phong tục khiêm nhường. Còn nếu một người tham lam tàn bạo, tất dấy lên cả nước phạm thượng, làm loạn... Nếu bản thân mình che giấu những hành vi không hợp với đạo trung thứ thì sao có thể giáo dục được người khác làm theo đạo trung thứ. Cho nên muốn trị nước tốt, trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình."

Một hình vẽ trong sách Nhị thập tứ hiếu. Đạo hiếu là đức tính được nhà Nho coi là nền tảng cho đạo đức xã hội
Từ thời nhà Hán, Nho giáo đã trở thành trung tâm cho việc quản lý xã hội, duy trì đạo đức tại Trung Hoa trong suốt hơn 2000 năm. Năm 1397, Minh Thái Tổ ra lệnh mỗi làng phải dán một tờ ghi sáu điều Đạo Nho để dân noi theo: "Phải hiếu thảo với cha mẹ, phải kính trọng người già, phải thờ phụng tổ tiên, phải dạy con nên người, phải yên ổn làm ăn". Năm 1670, vua Khang Hi nhà Thanh cũng ra một sắc lệnh gồm 16 điểm, dạy dân phải hiếu lễ, cần kiệm, nộp thuế đúng kì... và ra lệnh các hương chức và kẻ sĩ trong làng cứ nửa tháng một lần đọc và giảng cho dân nghe. Những kẻ bất hiếu, ăn cắp ăn trộm, cưỡng hiếp gian dâm... phải ghi tên vào một cái bảng treo trước cổng làng để nhân dân lấy đó làm răn.
Nhờ đạo Nho, các triều đình ít phải can thiệp vào đời sống của dân, cho các làng tự lập hương ước mà gần như tự trị. Một học giả Châu Âu khen người Trung Hoa tổ chức xã hội giỏi hơn người La Mã và mọi đế chế khác. Các kẻ sĩ ở mỗi làng, tổng, huyện (một vị trưởng lão trong làng, một thầy đồ hay một vị khoa bảng)... được dân tin, giúp chính quyền được nhiều việc cai trị, giáo dục, hòa giải các vụ kiện, trị bệnh, giữ an ninh. Họ được dân coi trọng hơn cả các quan lại, mà quan lại cũng phải nể họ. Vì vậy, Trung Hoa đất đai mênh mông mà số quan lại khá ít (cuối đời Thanh, Trung Quốc có 450 triệu dân mà chỉ cần 100.000 quan lại), triều đình không tốn nhiều lương bổng mà vẫn duy trì được xã hội ổn định suốt hàng trăm năm.
Đặc biệt là cứ mỗi lần đất nước bị họa vong quốc thì lại có hàng trăm kẻ sĩ Nho giáo sẵn sàng liều mình chống ngoại xâm, nếu chẳng may thất bại thì họ liền tuẫn quốc chứ không chịu sống nhục. Đã vậy, không chỉ nam giới liều thân hộ quốc nơi tiền tuyến mà phụ nữ ở hậu phương cũng một lòng chung thủy để người nam nhi an tâm ra đi gánh vác mệnh nước, nếu chồng hy sinh họ sẵn sàng tuẫn tiết để giữ lòng son. Đó là đặc điểm của những dân tộc thấm nhuần đạo Khổng. Trong lịch sử Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản... có hàng trăm tấm gương như vậy (Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Lê Tuấn Mậu, Văn Thiên Tường, Dương gia tướng,...). Đó là nguồn gốc tinh thần chống ngoại xâm bền bỉ của các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Theo Tommy Koh, Giám đốc Viện nghiên cứu chính sách Singapore, dưới ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, tất cả các xã hội Đông Á đều không ưa chủ nghĩa cá nhân cực đoan, không thích tự do báo chí theo kiểu lá cải, thổi phồng công luận, mặc cho báo chí thoả mãn cả những thị hiếu tầm thường, lảng tránh hoặc xem nhẹ chức năng giáo dục, hướng thiện cần thiết đối với xã hội. Không phải Đông Á phản đối tự do báo chí, song nếu báo chí được phép tự do đến mức phá vỡ những ranh giới đạo đức và lẽ phải, trở thành diễn đàn của những kẻ bất lương... thì không thể nhân danh tự do mà chấp nhận được. Thái độ này nằm trong logic chung của các giá trị gia đình, cộng đồng, đạo đức và trách nhiệm. Văn hoá Nho giáo và cả Phật giáo đều không chấp nhận lý lẽ của việc con cái kiện tụng cha mẹ, trừ những trường hợp hãn hữu khi cha mẹ không còn xứng đáng. Với các nền văn hoá này, mọi chuyện thuộc quan hệ cha mẹ - con cái đều cần phải xử lý trong khuôn khổ giá trị huyết thống. Vượt ra ngoài khuôn khổ này, quan hệ cha con sẽ không còn. Thực tế cho thấy, trong các xã hội Đông Á, một khi quan hệ huyết thống đã bị đưa ra Tòa án để xét xử, thì dẫu mọi chuyện có được giải quyết ổn thoả, tình nghĩa cũng chẳng còn hoặc chẳng còn là bao.
Lễ nghi
Nho giáo rất xem trọng Lễ nghi vì nó là biểu hiện của một xã hội văn minh và có trật tự. "Lễ" là những quy tắc mang tính hình thức được xã hội thừa nhận để bày tỏ sự tôn trọng đối với người khác, với cộng đồng hoặc với những định chế xã hội và để nhận được sự tôn trọng của xã hội. Việc giữ Lễ là một cách tu thân và chứng tỏ con người biết tuân thủ những nguyên tắc đạo đức trong quan hệ với người xung quanh. Một xã hội không biết giữ Lễ là xã hội hỗn loạn, kém văn minh và suy đồi. Lễ giáo phai nhạt cũng là biểu hiện các mối quan hệ giữa con người trong xã hội đã xấu đi, trật tự xã hội đã suy yếu. Lễ nghi sẽ tạo ra một xã hội hài hòa trong đó mọi người đều tự tiết chế trong mối quan hệ giữa người với người, không để những cảm xúc tiêu cực biến thành hành động mạo phạm, bất kính với người khác. Hữu Tử nói: "Tác dụng của lễ đạt được sự thống nhất, hài hòa mới là đáng quý. Phương pháp trị nước của những bậc vua hiền thời cổ đại có đúng đắn là ở chỗ này: việc lớn việc nhỏ đều tuân thủ nguyên tắc hài hòa. Nhưng có điều không nên làm: chỉ biết hài hòa là quý, rồi trong mọi việc chỉ biết hài hòa, không lấy lễ nghĩa để tiết chế thì việc gì cũng không xong.". Khổng Tử nói "Người quân tử học rộng về văn chương lại biết dùng lễ để chế ước, ràng buộc mình sẽ không bao giờ xa Kinh phản Đạo.". Mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có những nghi thức của riêng nó nhưng chung quy không xã hội văn minh nào có thể bỏ đi những lễ nghi mà chỉ thay đổi đối tượng, mục đích hoặc hình thức.
Nho giáo chủ trương lễ nghi phải phù hợp với địa vị xã hội, công lao, đức độ, tài năng, tuổi tác của người hành lễ và người nhận lễ. Ví dụ như "Nếu cha là quan đại phu, con là kẻ sĩ, khi cha chết thì dùng lễ của quan đại phu mà chôn cất cha, dùng lễ của kẻ sĩ thờ cúng cha." hoặc "Khi cử hành tế lễ ở tông miếu, phải biết sắp xếp bài vị đúng thứ tự, theo đẳng cấp thứ bậc tước vị đã được ông cha quy định, nhằm phân biệt rõ công lao, đức độ, tài năng. Khi mọi người cùng uống rượu thì người ít tuổi, thứ bậc thấp mời người nhiều tuổi, thứ bậc cao trước. Mục đích là đem lễ nghĩa về chữ hiếu quán triệt đến người ít tuổi.". Tuy nhiên cũng có những quy tắc chung mà từ quân vương đến thứ dân đều phải tuân thủ như "Phép để tang ba năm thực hiện từ thứ dân cho đến thiên tử (vua). Để tang cha mẹ phải là ba năm, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, tất cả đều như nhau (bởi con người trong 3 năm đầu đời đều "đói không thể tự ăn, rét không thể tự mặc", tất cả đều phải nhờ do cha mẹ khổ công nuôi nấng)".
Lễ phải bắt nguồn từ sự tôn trọng chân thành của người hành lễ đối với người nhận lễ thì mới có giá trị. Khổng Tử nói: "Một người không có lòng nhân sao có thể hành được lễ ?". Khổng Tử phê phán những lễ nghi hình thức giả dối. Ông nói "Người đời trước đối với lễ nhạc, coi trọng phối hợp thích đáng giữa nội dung và hình thức thì bị coi là lạc hậu quê mùa. Người đời sau đối với lễ nhạc, coi trọng hình thức hơn nội dung thì lại bảo là người quân tử. Nếu sử dụng lễ nhạc, ta tình nguyện đi theo các bậc tiền bối.". Trái với tập quán của người đời thích những lễ nghi phô trương để chứng tỏ sự giàu sang, quyền lực của bản thân, khi được hỏi về gốc của lễ, Khổng Tử trả lời: "Vấn đề của ngươi hỏi thật quá lớn! Lễ nói chung đi kèm với xa hoa lãng phí thì không bằng tiết kiệm. Nghi thức mai táng mà cầu kỳ, lòe loẹt thì không bằng trong lòng thật sự đau buồn.".
Trong các loại lễ nghi, hai lễ nghi phổ biến nhất, từ đấng quân vương cho đến kẻ thứ dân ai cũng thực hiện, được Nho giáo rất xem trọng là tang lễ và việc cúng tế tổ tiên. Tăng Tử nói: "Phải cẩn thận làm tốt tang lễ cho cha mẹ khi qua đời; thành tâm, thành ý khi cúng tế tổ tiên. Được như vậy, dân chúng được cảm hóa, phong tục đạo đức của dân chúng ngày một tốt đẹp và thuần hậu.". Ngày nay, tại các nước Đông Á tang lễ và cúng tế tổ tiên vẫn là các lễ nghi quan trọng nhất, được tổ chức chu đáo nhất. Việc không tổ chức các lễ nghi này, không tham dự hoặc làm qua loa có thể bị xem là bất kính.
Quan hệ xã hội
Theo Nho giáo, trong xã hội có 5 mối quan hệ cơ bản là: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Để thực hiện tốt 5 mối quan hệ này cần có 3 đức tính: trí, dũng, nhân.
Trong các mối quan hệ xã hội, con người phải đối xử tốt với người khác, "mình không muốn bị người khác đối xử thế nào thì cũng không nên đối xử với người khác như vậy". Người chỉ biết làm việc vì lợi ích của mình nhất định sẽ chuốc lấy nhiều oán hận. Đối với người lãnh đạo thì càng phải ghi nhớ và thực hành điều này, như sách Đại Học viết "Người quân tử phải hiền hòa, nhân đức, yêu thích điều dân yêu thích, ghét điều dân ghét. Đó mới gọi là làm cha mẹ của dân.". Nhân chi sơ, tính bổn thiện vì vậy mỗi người hãy đối nhân xử thế phù hợp với tính thiện trời ban cho mình, xử thế phải hết sức cẩn thận, chu toàn, thành thật. Sách Trung Dung viết "Phải hết sức răn mình cẩn thận về những điều không ai nhìn thấy, e sợ những việc không ai nghe thấy. Không gì dễ hiện ra bằng điều giấu giếm, không gì dễ lộ ra bằng điều nhỏ nhặt. Cho nên người quân tử khi xử thế một mình, từ lời ăn tiếng nói đến việc làm cụ thể càng phải cẩn thận, chu đáo hơn bao giờ hết.". Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử chủ trương "Vua sử dụng bề tôi phải theo lễ, bề tôi phụng thờ vua phải theo trung.". Nho giáo đề cao sự trung thành đối với nhà nước quân chủ vì đó là nhân tố góp phần vào sự ổn định của xã hội. Khổng Tử nói "... Vua Vũ vương được hai phần ba thiên hạ, vẫn giữ khí tiết của một trung thần phụng thờ triều Ân. Đức của vua Vũ vương có thể nói là đức cao quý nhất.".
Trong mọi hoàn cảnh, con người cần kiềm chế cảm xúc, làm chủ bản thân, không biểu hiện cảm xúc ra ngoài một cách thái quá, đó gọi là trung hòa. Biết trung hòa cảm xúc thì con người ta mới cư xử đúng mực. Sách Trung Dung viết "Khi tình cảm như: vui mừng, hờn giận, đau thương, khoái lạc chưa biểu hiện ra thì gọi là trung; biểu hiện ra rồi nhưng phù hợp, đúng mức thì gọi là hòa. Trung là điều cơ bản lớn nhất trong thiên hạ. Hòa là chuẩn tắc phổ biến nhất trong thiên hạ. Trung hòa mà đạt đến tột cùng thì mọi cái trong trời đất đều ở vị trí thỏa đáng, vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở."
Nho giáo quan niệm Trung dung là sự ôn hòa, cân bằng, không thái quá, không thiên lệch về bên này hoặc bên kia. Trong đối nhân xử thế, Trung dung là không quá cương cũng không quá nhu, không thái quá cũng không bất cập. Trong chính trị, Trung dung là không quá khích, cực đoan; không cực tả cũng không cực hữu, không nhảy từ thái cực này sang thái cực kia: "Lời nói và việc làm của người quân tử thì phù hợp với chuẩn tắc trung dung, còn kẻ tiểu nhân thì phản lại trung dung. Người quân tử luôn giữ được trạng thái trung hòa, không để thái quá hay bất cập. Kẻ tiểu nhân thì không hề lo sợ, nể nang hay e dè ai hết, nên cách nói năng của và hành động của kẻ tiểu nhân không thái quá thì cũng bất cập.". Đạo Trung dung không chỉ dành cho nhà cầm quyền, người có học thức, bậc quân tử mà phổ biến khắp thiên hạ, ai ai cũng có thể hiểu và thi hành kể cả những người ngu dốt, nhưng để đạt đến mức độ cao sâu thì thánh nhân cũng chưa làm nổi: "Đạo sở dĩ không được thực hành, ấy là vì người thông minh có trí tuệ thì nhận thức và thực hành thái quá, người kém hiểu biết thì nhận thức bất cập...... Đạo của người quân tử vừa to lớn bao la, vừa vô cùng nhỏ bé. Những người ngu dốt kém cỏi cũng có thể hiểu và làm theo được, nhưng đạt tới chỗ cao sâu nhất thì đến thánh nhân cũng có điều chưa thể làm nổi.".
Để giữ được đạo Trung dung, con người vừa phải sống hòa đồng với mọi người vừa phải có tư duy độc lập, luôn giữ chính kiến của mình, luôn giữ đạo Trung dung, không bị lôi cuốn theo đám đông, không bị hoàn cảnh lung lạc. Đây là sức mạnh chân chính của người quân tử:
"Người quân tử sống hòa khí với mọi người, nhưng không buông trôi theo thói tục của người đời. Giữ trọn đạo Trung dung, không hề thiên lệch bên nào, khi quốc gia yên ổn cũng như khi loạn lạc, có chết cũng không thay đổi chí hướng của mình, đấy mới là sức mạnh chân chính.". Khổng tử nói "Người quân tử phải theo đạo mà đi, không được nửa đường thì bỏ dở. Người quân tử chỉ một lòng theo đạo Trung dung mà thôi. Còn như phải trốn đời ở ẩn nơi rừng sâu núi thẳm cũng không hối hận, chỉ có thánh nhân mới làm được như vậy."".
Tuy nhiên, người đời vô minh, không nhận thức được tính chất minh triết, tốt đẹp của đạo Trung dung nên luôn hành động thái quá hay bất cập khiến xã hội hỗn loạn, suy đồi, xung đột nảy sinh; tạo ra vô số bi kịch trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống chính trị. Khổng Tử từng than thở "Đạo Trung dung này rất mực tốt đẹp. Từ lâu dân chúng đã thiếu hẳn đạo này.".
Đa phần xung đột đều bắt nguồn từ sự hiểu lầm, khi bị người khác hiểu lầm thì không nên oán giận họ vì sẽ làm xung đột càng trầm trọng hơn. Khổng Tử nói: "Người không hiểu ta mà ta chẳng oán giận họ, như vậy không phải là người quân tử ư?", "Không sợ người không hiểu ta mà chỉ sợ ta không hiểu người.". Khi xảy ra mâu thuẫn, xung đột, nếu biết khoan dung, tha thứ cho những lỗi lầm của người khác; những thiệt hại, khổ đau người khác gây ra cho mình thì thù hận sẽ chấm dứt. Ngược lại nếu tìm mọi cách trả thù thì thù hận kéo dài không bao giờ chấm dứt. Khổng Tử nói "Bá Di, Thúc Tề, hai người này thường cho qua những thù hận cũ nên người oán hận họ rất ít.".
Trong xã hội có nhiều hạng người: người giàu, người nghèo, người lãnh đạo, người thừa hành... Nho giáo khuyên con người nên làm việc theo chức trách, có cách sống phù hợp với hoàn cảnh và địa vị xã hội của mình. Ai làm như vậy sẽ luôn thấy thoải mái, không so đo mình với người khác cũng không nảy sinh bất mãn. Người thích dũng cảm mà lại căm ghét sự nghèo hèn của mình thì rất dễ làm loạn. Sách Trung Dung viết: "Người quân tử nên dựa vào địa vị hiện tại của mình mà làm việc, không nên ham những cái ngoài bổn phận của mình... Người quân tử ở bất kỳ hoàn cảnh nào đều có thể điềm nhiên tự tại, bình tĩnh tự đắc, không kêu ca phàn nàn.". Mỗi người đều có vị trí riêng trong hệ thống phân công lao động xã hội phù hợp với năng lực, trí tuệ và hiểu biết của mình. Những người ở địa vị cao phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện, thử thách, va chạm lâu dài; từng thành công và thất bại nhiều lần mới đảm nhận được chức trách mà họ đang nắm giữ. Người lãnh đạo cấp cao có đội ngũ cố vấn, giúp việc có trình độ nên mới xử lý nổi những vấn đề trong phạm vi trách nhiệm của họ. Nếu mỗi người không tập trung làm tốt phận sự của mình mà cứ lo những chuyện vượt quá tầm hiểu biết, khả năng nhận thức, năng lực và trách nhiệm của mình thì chỉ dẫn xã hội đến hỗn loạn. Khổng Tử nói "Không ở vào chức vị nào thì đừng bàn tính về chính sự của chức vị ấy.". Chính vì thế, con người nên gắng làm tốt công việc hiện tại của mình chứ không cần phải theo đuổi, cầu cạnh chức tước, địa vị. Việc thăng tiến là điều tự nhiên nếu người đó làm tốt. Kẻ tiểu nhân ngược lại luôn theo đuổi hư danh, địa vị ngoài khả năng của mình. Sách Trung Dung viết "Khi ở địa vị cao, không lăng mạ chèn ép người dưới; khi ở địa vị dưới, không nịnh bợ cầu cạnh người trên; lúc nào cũng giữ bản thân ngay thẳng, chẳng cầu mong xin xỏ người khác, được như vậy thì trên không oán trời, dưới không trách người, luôn ở địa vị ổn định để chờ mệnh trời. Còn kẻ tiểu nhân buộc phải mạo hiểm để theo đuổi chức vụ, địa vị ngoài khả năng của mình.".
Theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì con người sống trong xã hội không nên tranh chấp vì danh lợi. Điều đáng để mọi người thi đua là sống sao cho hợp đạo lý, đối xử nhau sao cho có tình có lý, có lễ nghĩa. Khổng Tử nói: "Người quân tử không việc gì phải tranh đua. Nếu có việc đáng tranh đua thì chỉ có ở cuộc thi bắn cung. Khi đọ tài bắn cung cũng phải giữ lễ, vái chào lẫn nhau trước rồi sau đó mới bắn cung. Bắn cung xong ngồi nâng chén chúc mừng lẫn nhau. Đây là điều đáng tranh đua của người quân tử.". Khi chưa có chức vụ, địa vị thì "Không sợ buồn vì không có chức vụ địa vị, chỉ buồn vì không có tài đức để làm tròn chức vụ địa vị ấy. Không sợ người khác không biết mình, mà phải cầu mong làm sao có năng lực làm cho người khác hiểu mình.". Nếu hoàn cảnh sống, chức tước, địa vị không được như ý thì phải xem lại bản thân mình chứ không nên trách trời, oán người hay đổ lỗi cho nhà nước. Khổng Tử nói:
"Phép bắn cung cũng giống như đạo người quân tử vậy. Khi bắn mũi tên không trúng đích, phải trở lại tìm nguyên nhân ở chính bản thân mình."... người có chức lớn tất có địa vị, danh tiếng xứng đáng và hưởng thọ lâu dài... người có đức lớn, nhất định được trời ban cho chức vụ để làm việc có ích cho đời.".
Trong tất cả mọi mối quan hệ xã hội như với cha mẹ, với cấp trên, với bạn bè, Nho giáo rất đề cao sự thành thật. Người thành thật sẽ được mọi người tin cậy. Con người trước hết phải thành thật với bản thân mới có thể thành thật với mọi người. Theo sách Trung Dung "Muốn bản thân thành thật cũng có cách của nó: nếu không hiểu rõ thế nào là đức thiện, tính thiện thì cũng không thể bồi dưỡng cho mình có lòng thành thật với bản thân.". Theo Nho giáo, có một số người vốn dĩ tự nhiên đã thành thật, một số khác phải rèn luyện bản thân để trở nên thành thật: "Thành thật tự nhiên vốn là đạo trời. Còn tự mình nỗ lực đạt đến thành thật là đạo người. Bậc thành thật tự nhiên không phải cố gắng cũng tự nhiên thích hợp với đạo, không phải suy nghĩ cũng hiểu được đạo, cứ ung dung mà hợp với đạo trung dung, đó là bậc thánh nhân. Còn người tu tập để đạt tới thành thật thì phải chọn lấy điều thiện mà kiên trì theo đuổi. Muốn vậy, phải học tập cho sâu rộng, hỏi han cho kỹ lưỡng, suy nghĩ cho thận trọng, phân biệt cho sáng tỏ, thực hành cho thấu đáo.". Muốn đạt đến thành thật thì "Đối với việc nhỏ mà dám bỏ công sức học hỏi, suy nghĩ, xem xét và thi hành đạo lý thì cũng xem như đã đạt đến thành thật. Có lòng thành thật thì sẽ biểu hiện ra ngay. Hiện rõ ra rồi thì sẽ sáng chói. Sáng chói thì sẽ cảm động đến lòng người.". Theo sách Trung Dung, người đã đạt đến đức thành thật cao cả thì "dẫu không biểu hiện ra mà vẫn sáng rõ, dẫu không động mà vẫn biến hóa, dẫu không làm mà cũng thành công.". Việc nịnh hót người khác, giả bộ hiền lành, cung kính thái quá, đem oán hận giấu kín trong lòng nhưng bề ngoài vẫn giả bộ hữu hảo bị Nho giáo đánh giá là hành vi xấu. Khổng Tử nói:
"Dùng những lời lẽ hay ho để nịnh hót, làm vừa lòng người và tỏ vẻ hiền lành, như vậy không phải là người có lòng nhân."... "Những người dùng lời lẽ trau chuốt ngọt xớt, giả bộ hiền lành, cung kính thái quá, loại người này theo Tả Khâu Minh là rất đáng sỉ nhục. Khâu ta cũng cho là rất đáng sỉ nhục. Đem oán hận giấu kín ở trong lòng nhưng bề ngoài vẫn giả bộ hữu hảo với người, loại người như vậy Tả Khâu Minh cũng cho là đáng sỉ nhục. Khâu ta cũng cho là đáng sỉ nhục.:
Tuy nhiên, người đời lại thích những lời ngọt ngào, giả dối. Sự thật thì khó nghe và dễ làm mất lòng người. Khổng Tử nói "Nếu không có mồm mép nói dễ nghe như Chúc Đà và vẻ đẹp như công tử Triều nước Tống thì đời nay khó mà tránh được người ta ghét bỏ, xa rời.". Vì vậy phải làm sao giữ được sự thành thật mà vẫn không làm mất lòng người, không bị đánh giá là thô lỗ, thiếu tế nhị. Đó là nghệ thuật ứng xử cần khổ công rèn luyện. Khổng Tử nói "Chất phác mà bỏ qua văn vẻ thì thô tục. Văn vẻ mà bỏ qua chất phác thì phù phiếm. Văn vẻ và chất phác hài hòa với nhau mới là người quân tử.". Nếu làm được như vậy có thể sống ngay thẳng giữa cuộc đời. Khổng Tử nói "Con người ta sống được là nhờ ngay thẳng. Kẻ không ngay thẳng tuy nhiên cũng sống được, nhưng chẳng qua nhờ may mắn mới tránh được tai họa đó thôi.". Người ngay thẳng không sợ bị kẻ khác hãm hại, cây ngay không sợ chết đứng. Khi quan tư mã nước Tống là Hoàn Đồi âm mưu giết Khổng Tử bằng cách chặt cây mà ông thường ngồi dạy học trò về đạo làm người, Khổng Tử nói "Trời đã phú cho ta phẩm đức, Hoàn Đồi kia còn có thể làm gì được ta ?".
Khi đánh giá người khác, đừng đánh giá qua lời nói mà hãy đánh giá qua hành động của người đó. Khổng Tử nói: "Nhìn kỹ cách người ta làm, xét người ta làm vì cái gì, rồi xét kỹ người ta có vui lòng mà làm hay không. Như vậy người ta không có cái gì có thể giấu được, làm sao mà giấu được ?". Mỗi người hãy chứng tỏ bản thân mình bằng việc làm chứ không phải bằng lời nói. Như vậy mới là người quân tử. Tử Cống hỏi: "Thế nào là người quân tử ?". Khổng Tử nói: "Trước hết thực hành lời mình nói đã, sau mới nói ra.". Năng lực mỗi người khác nhau nên không thể đòi hỏi kết quả giống nhau được. Chỉ cần người đó toàn tâm, toàn ý là được. Khổng Tử nói: "Thi bắn cung, không nhất thiết phải xuyên qua bia, bởi vì sức lực của mỗi người không giống nhau, đây là quy tắc bắn cung thời cổ.".
Trong xã hội không ai hoàn hảo. Từ người lãnh đạo cao nhất cho đến người dân bình thường đều có thể mắc sai lầm. Sai lầm của người lãnh đạo nếu không bị chỉ ra có thể biến thành sai lầm của tập thể hoặc cả một quốc gia. Sai lầm có thể bị che giấu khiến nó ăn sâu vào đời sống xã hội, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì thế muốn xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, tránh được những hậu quả tiêu cực do sai lầm của con người gây ra thì sai lầm của cá nhân hoặc cộng đồng phải được phơi bày ra ánh sáng để người mắc sai lầm, những người khác và các thế hệ tương lai thấy để sửa sai và tránh lặp lại. Ở đâu thiếu minh bạch, ở đó cái xấu, cái ác sẽ sinh sôi nảy nở và ngày càng lớn mạnh. Khổng Tử nói: "Dám mạnh dạn đấu tranh, phê bình, chỉ trích tệ hại, thói hư tật xấu thì tự nhiên họa hại sẽ tiêu tan.". Tuy nhiên việc phê bình, góp ý người khác cũng cần tinh tế để ý kiến đóng góp được tiếp thu mà người nghe cũng không khó chịu hoặc cảm thấy bị xúc phạm. Phải biết kết hợp giữa khen và chê vì ai cũng có ưu điểm và nhược điểm. Nếu chỉ thấy nhược điểm của một người rồi tìm mọi cách phê bình, chỉ trích mà lờ đi ưu điểm của người đó là cách đối xử thiếu tế nhị thậm chí là ác ý. Tử Du nói: "Phụng thờ vua nếu chỉ biết luôn can gián vua thì sẽ chuốc lấy nhục nhã. Đối đãi với bè bạn, nếu cứ luôn luôn góp ý kiến cho bạn thì bạn sẽ xa mình.". Ngược lại, người mắc sai lầm cũng phải dũng cảm, cầu thị nhận sai lầm và sửa sai. Khổng Tử nói "Lời nói đúng đắn có thể không tiếp thu ư ? Nhưng chỉ tiếp thu chưa đủ, mà còn phải sửa chữa sai lầm nữa mới là điều đáng quý. Lời nói mềm dẻo, nhẹ nhàng, từ tốn thì có thể không vui sướng chăng ? Nhưng chỉ vui sướng chưa đủ, mà còn phải suy nghĩ mới là điều đáng quý. Chỉ biết vui sướng mà không biết suy nghĩ, chỉ biết tiếp thu mà không chịu sửa chữa, loại người như vậy ta chẳng còn cách nào nữa.". Một lần có người chỉ ra sai lầm của Khổng Tử, ông nói "Ta thật may mắn, giả dụ có sai lầm thì người ta cũng biết được".
Nho giáo cũng phê phán tệ bè phái, chia rẽ trong xã hội, xem tinh thần đoàn kết là một phẩm chất đạo đức của người quân tử còn óc bè phái là đặc tính của kẻ tiểu nhân. Khổng Tử nói: "Người quân tử đoàn kết rộng rãi với mọi người, chứ không phải chỉ câu kết phe cánh. Kẻ tiểu nhân chỉ biết câu kết phe cánh, chứ không biết đoàn kết rộng rãi với mọi người.".
Thuật lãnh đạo
Nho giáo chủ trương: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quý nhất, rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua)". Người lãnh đạo chân chính phải xem việc cai trị thiên hạ là bổn phận, trách nhiệm của mình chứ không phải vì lợi ích cá nhân hay là thứ giúp bản thân mình trở nên cao quý. Khổng Tử nói "Cao quý thay vua Thuấn và vua Vũ! Được cả thiên hạ mà vẫn cảm thấy việc này không có gì đáng vui hoặc kiêu hãnh cả.". Đây là một tư tưởng rất mới mẻ trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Vua không có quyền coi nhân dân là của riêng mà phải lo cho dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương chính trị của Nho giáo vào thời kỳ đó rất táo bạo nhưng rất hợp lý, làm cho nền quân chủ thời đó cũng như các nền chính trị thời nay cũng không thể nào bắt bẻ được.
Nho giáo xem nhân dân là yếu tố quyết định đối với sự tồn vong của chế độ chính trị. Nếu một nhà nước nhận được sự ủng hộ của nhân dân thì vững bền, nếu mất lòng dân thì sụp đổ. Sách Đại Học viết:
"Kinh Thi có câu: Khi nhà Ân chưa để mất lòng dân thì còn xứng đáng để thụ mệnh thiên tử. Nên soi vào tấm gương của nhà Ân để biết rằng, giữ được thiên hạ không phải là dễ. Đây là muốn nói đạo trị dân: nếu được lòng dân là được nước, mất lòng dân là mất nước.".

Vua Hạ Kiệt bị Nho giáo coi là bài học điển hình cho việc mất nước vì tàn bạo
Muốn giữ được lòng dân, giữ vững chế độ thì người lãnh đạo phải có đức thiện vì "có đức thiện mới có được mệnh trời, nếu không có đức thiện thì sẽ mất mệnh trời ngay". Chính vì thế "Làm người cai trị quốc gia không thể không cẩn thận. Nếu để sơ suất một phân ly, không noi theo khuôn phép, tất sẽ bị nhân dân loại bỏ ngay."... lãnh đạo phải có sự chuẩn bị thì mới thành công, không chuẩn bị sẽ thất bại. Nếu chuẩn bị thì nói không vấp váp, làm không khó khăn. Nếu có phép tắc thì hành động không mắc sai lầm, việc hành đạo luôn thông suốt.". Khổng Tử nói: "Quản lý, lãnh đạo một quốc gia có nghìn cỗ xe phải xử lý nghiêm túc, cẩn thận, chu đáo tất cả mọi công việc, phải đặc biệt giữ điều tín với dân, tiết kiệm chi tiêu, yêu mến dân, sử dụng sức dân trong thời gian thích hợp.". Người lãnh đạo cẩn thận trong mọi việc nhưng cũng cần quyết đoán để không đánh mất thời cơ. Quý Tử Văn làm việc gì đều nghĩ đi nghĩ lại rất nhiều lần. Khổng Tử nghe vậy nói "Nghĩ hai lần là đủ rồi".
Nho giáo xem tư cách, đạo đức con người luôn quan trọng hơn tài sản. Ở tầm vóc quốc gia, nhân nghĩa mới thật sự là lợi ích chứ không phải của cải vật chất. Người lãnh đạo phải coi trọng nhân nghĩa, đặt nhân nghĩa lên trên cái lợi trước mắt thì xã hội mới ổn định. Xã hội ổn định thì quốc gia phát triển, quốc khố mới được sung túc. Sách Đại Học viết:
"Người nhân dùng của cải của mình để hoàn thiện phẩm đức. Kẻ bất nhân dùng sinh mệnh của mình để vơ vét thêm của cải. Chưa từng có bậc vua nào yêu điều nhân mà dân chúng lại không yêu điều nghĩa. Chưa từng có người nào hiểu điều nghĩa mà lại làm việc không hết lòng... Điều này nói lên rằng: người trị quốc không nên xem tài sản là vốn quý, mà nên xem nhân nghĩa là vốn quý.".
Người lãnh đạo quốc gia hoặc tổ chức luôn là tấm gương để cấp dưới và dân chúng noi theo. Người lãnh đạo có đạo đức tốt thì cấp dưới, nhân dân mới noi gương tu dưỡng đạo đức. Ngược lại, thượng bất chính, hạ tất loạn - Cấp trên không quang minh chính đại, không tuân thủ nguyên tắc, vi phạm luật pháp, có hành động vô đạo thì cấp dưới và quần chúng cũng bắt chước làm bậy. Sách Đại Học có đoạn viết "Nếu người trên có hiếu với cha mẹ, tôn trọng bậc huynh trưởng, thật lòng thương xót kẻ côi cút cô đơn góa bụa, thì nhân dân cũng tự mà noi theo như vậy. Người quân tử phải nắm vững đạo noi theo khuôn phép này.".... "Vua Nghiêu, vua Thuấn dùng nhân ái để quản lý thiên hạ, nhân dân theo đó mà làm thiện. Vua Kiệt, vua Trụ dùng bạo lực để quản lý thiên hạ, dân chúng cũng theo đó mà làm loạn. Ra lệnh cho dân chúng thực hành nhân ái nhưng mình lại tàn bạo, thì dân nhất định chẳng nghe theo. Người quân tử, trước hết nên yêu cầu mình làm thiện và tránh làm ác, sau đó mới răn dạy người khác.". Người lãnh đạo có đạo đức thì không cần ban thưởng, mọi người đều tín nhiệm, tin theo khiến thiên hạ thái bình, vô sự. Khổng Tử nói: "Cầm quyền lãnh đạo quốc gia cần phải dựa vào đạo đức thì dân chúng đều quy thuận. Tự mình giống như sao Bắc Đẩu vậy, ở cố định một nơi còn các sao khác đều chầu quay quanh nó., không cần ban thưởng mà dân chúng vẫn cảm thấy như được động viên, được cảm hóa, đua nhau làm theo điều thiện; không cần phẫn nộ mà dân chúng vẫn đã kính sợ hơn cả hình phạt bằng búa rìu... người quân tử giữ mình một cách thành thật, thì tự nhiên thiên hạ sẽ thái bình vô sự.". Đó là nghệ thuật lãnh đạo chân chính có thể áp dụng từ tổ chức nhỏ nhất cho đến cấp độ quốc gia. Khổng Tử nói: "Nếu gào thét và nghiêm sắc mặt để giáo hóa dân chúng đó là hạ sách, là điều ngọn vậy." vì "có thể cướp cờ, đoạt tướng giữa ba quân, nhưng không thể cướp đoạt được chí khí của một người dân bình thường.".
Chính vì vậy Nho giáo là một học thuyết chính trị đề cao Nhân trị. Dù hình thức chính trị, tổ chức nhà nước, hệ thống luật pháp có hoàn hảo đến mức nào mà người lãnh đạo thiếu đạo đức, không vì dân thì dân cũng chịu khổ, xã hội hỗn loạn. Dù hình thức chính trị lỗi thời, tổ chức nhà nước không chặt chẽ, luật pháp thiếu sót mà nhà cầm quyền có phẩm hạnh tốt, biết tôn trọng và hết lòng vì dân thì dân vẫn tin tưởng, xã hội ổn định. Sách Đại Học có câu:
"Đức là gốc, tài sản là ngọn. Nếu như bỏ gốc mà lấy ngọn, thì sẽ tranh lợi với dân, cướp bóc dân. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ biết phát ra những mệnh lệnh trái lẽ, chỉ lo tích tụ tài sản châu báu ngọc ngà, thì dân chúng sẽ đối xử lại bằng những điều phản nghịch, khiến cho triều đình ngày một khánh kiệt".".
Việc cai trị bằng nhân nghĩa, bằng cách giáo dục quần chúng để họ tự giác sẽ tốt hơn dùng hình pháp ép buộc người dân tuân thủ luật pháp. Khổng Tử nói: "Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân thì dân sẽ hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, sẽ cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ tư tưởng.". Khi muốn người dân làm điều gì đó, nếu dân đồng ý thì để cho họ làm, nếu dân không đồng ý thì phải giảng giải cho họ hiểu chứ không cưỡng ép họ. Khi quan hệ giữa con người trong xã hội tốt đẹp thì không cần đến sự can thiệp của luật pháp. Khổng Tử nói: "thẩm tra xét xử công án thì năng lực của ta cũng như người khác thôi. Điều mà ta mong muốn tâm đắc là người ta đừng có đi kiện tụng nữa. Phải để cho những kẻ giấu giếm sự thật không dám khua môi múa mép, không dám cậy thế đè người, ức hiếp hãm hại người hiền; khiến cho dân chúng hoàn toàn tâm phục. Thế mới gọi là hiểu được cái gốc của đạo lý.. Đây là quan niệm cai trị mang tính nhân bản của Khổng Tử tuy rằng trên thực tế đến ngày nay lý tưởng của ông nhân loại vẫn chưa thực hiện được bao nhiêu. Để thi hành Nhân trị khiến dân kính trọng, trung thành với nhà nước và tự động viên nhau làm điều tốt thì nhà cầm quyền phải "Có thái độ nghiêm túc, đoan chính đối với mọi việc của dân chúng thì dân chúng kính trọng. Hiếu thuận với cha mẹ, hiền từ với già trẻ, gái trai thì dân chúng sẽ trung thành. Sử dụng cất nhắc người tốt, giáo dục người không có năng lực thì dân chúng sẽ tự động viên, cổ vũ nhau làm điều tốt.".
Người lãnh đạo phải có học vấn mới thực hiện tốt công việc của mình. Khổng Tử phản đối quan niệm của học trò ông là Tử Lộ "Làm quan thì có dân để cai trị, có thần xã tắc để tế lễ, không cần phải chọn kẻ có học làm huyện trưởng, sau làm mới là học.". Người lãnh đạo còn phải thấm nhuần đạo Trung dung mới không đưa ra những chính sách, những quyết định mang tính bất cập hoặc thái quá gây hại cho quốc gia. Khi còn ở nước Trần, Khổng Tử nói "Về đi! Về đi! Những học trò của quê hương ta, chí hướng thì rất cao xa mà việc làm thì rất giản lược, không câu nệ tiểu tiết; về văn chương đều có thể có thành tích khả quan. Nhưng họ chẳng biết xem xét, sửa mình theo đạo Trung dung.".
Thuật lãnh đạo của Nho giáo đề cao những lãnh đạo biết quý trọng tài năng, biết dùng người. Lãnh đạo thiếu tài năng nhưng biết dùng người vẫn thành công. Ngược lại, lãnh đạo dù tài năng nhưng không biết dùng người cũng thất bại. Sách Đại Học viết "Một vị đại thần dù chẳng có tài gì khác, nhưng có tấm lòng quảng đại, bao dung; thấy người khác có tài năng, hiền đức, đại thần đó kính phục từ trong tâm, thì vị đó có thể dung nạp người hiền tài, nên có thể che chở con cháu, xã tắc và nhân dân của ta. Đại thần đó đối với ta rất có ích lắm thay! Còn kẻ làm tôi thấy người khác có tài năng thì đem lòng đố kỵ, ghen ghét; làm điều khó dễ, khiến cho người ấy không được vua biết tới, không thành công trong mọi việc, thì loại người này hết sức nguy hiểm cho con cháu, xã tắc và nhân dân của ta!". Khi dùng người, nên chọn người nghiêm túc, cẩn thận, biết lo lắng khi đối mặt với công việc, biết mưu tính để đạt thành công. Tử Lộ hỏi Khổng Tử nếu ông thống lĩnh quân đội đi đánh giặc, ông sẽ chọn ai theo. Khổng Tử trả lời "Kẻ tay không mà dám đấu với hổ, không dùng thuyền mà dám lội qua sông, chết mà không tiếc thân thì ta chẳng thể chọn người như vậy theo giúp ta. Người theo giúp ta phải là người nghiêm túc, cẩn thận, biết lo lắng khi đối mặt với công việc, biết mưu tính để đạt thành công. ". Một người có trí tuệ, tài năng và kỹ thuật tài nghệ như Chu Công nhưng nếu kêu ngạo và keo kiệt, bủn xỉn thì không thể sử dụng các mặt khác của người ấy được.
Nho giáo xem hiền tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy "Phát hiện người có tài đức mà không đề bạt cất nhắc hoặc không trọng dụng, đây là khinh rẻ người có tài đức vậy. Phát hiện kẻ bất lương làm sai trái mà không bãi chức, bãi chức rồi mà không đuổi ra nơi xa xôi hẻo lánh, đây gọi là dung túng cho kẻ bất lương vậy. Ưa thích cái mà mọi người ghét bỏ, ghét bỏ cái mà mọi người ưa thích, thế gọi là làm trái bản tính con người, tai họa nhất định giáng xuống kẻ ấy. Cho nên, làm người quân tử cần nhớ kỹ đạo lý lớn này: phải dựa vào trung tín mới được thiên hạ, còn nếu kiêu ngạo, phóng túng thì nhất định mất thiên hạ.".
Nho giáo chủ trương người lãnh đạo phải biết lắng nghe ý kiến mọi người rồi chọn ra quan điểm đúng đắn nhất để thi hành. Sách Trung Dung có câu: "Vua Thuấn là người có trí tuệ cao siêu nhất: ngài ham hỏi han, lại để tâm suy xét cả những lời thiển cận bình thường. Có ai bày tỏ làm điều gì xấu thì vua bỏ qua cho, ai nêu lên được điều gì tốt thì vua tán dương phát huy triệt để. Trong số những ý kiến ấy, vua Thuấn nắm chắc hai thái cực, chọn lấy cái đúng đắn, hợp lý để lãnh đạo, quản lý dân chúng.". Người lãnh đạo mà tự ý làm càn, chuyên quyền độc đoán hay bảo thủ thì nhất định gặp tai họa. Khổng Tử nói "Kẻ ngu dốt ngoan cố, tự phụ mà hay tự ý làm càn; kẻ ty tiện mà lại hay chuyên quyền độc đoán; kẻ sống trong thời đại ngày nay mà lại muốn quay về theo lễ chế ngày xưa, ba hạng người như vậy nhất định sẽ gặp tai họa.". Khổng Tử không bao giờ mắc phải bốn sai lầm: không dựa vào ý riêng; không phán đoán khẳng định, áp đặt; không cố chấp; không tự cho mình là đúng cả.
Trong quan hệ cấp trên với cấp dưới thì quan điểm của Khổng Tử là "Người bề trên đối với kẻ dưới không khoan dung rộng lượng, chấp hành lễ không nghiêm túc kính cẩn, cử hành tang lễ không đau buồn, thương xót, làm sao ta có thể chịu được ?". Ngược lại người dưới cũng phải biết chọn cành mà đậu, chọn chúa mà thờ, chọn người mà hợp tác. Ai phụng sự, hợp tác với kẻ bạo ngược, tàn ác, vô đạo một ngày nào đó sẽ trở thành nạn nhân của kẻ đó. Khổng Tử nói: "Cư trú ở nơi có nhân đức mới tốt. Chọn nơi không có nhân đức để ở, làm sao có thể nói là người có đức trí được ?".
Điều quan trọng nhất trong việc cai trị thiên hạ là lễ nhạc, luật lệ và văn tự. Nếu nắm vững ba điều này thì ít phạm sai lầm. Sách Trung Dung đưa ra 9 nguyên tắc lớn trong đạo trị quốc là:
Tu dưỡng bản thân thì đạo đức được xác lập.
Tôn trọng hiền tài thì không bị mê hoặc, ngu tối.
Yêu quý thân tộc thì chú bác, anh em không oán hận.
Kính trọng đại thần thì công việc ít phạm sai lầm.
Săn sóc quần thần thì kẻ sĩ tận lực báo đáp.
Quan tâm đến dân thì dân chúng thực hiện tốt mọi điều bề trên đề ra.
Khuyến khích bách nghệ phát triển thì vật dụng, hàng hóa buôn bán đủ đầy, sung túc.
Trọng đãi người nước ngoài đến nước mình làm ăn sinh sống thì bốn phương quy thuận.
Vỗ về chư hầu thì khắp thiên hạ sẽ kính phục.
Nho giáo là một học thuyết chính trị với lý tưởng an bang định quốc nhưng không hề mang tính bảo thủ. Nho giáo khuyên người cầm quyền luôn tự đổi mới cách cai trị của mình cho hợp thời và khuyến khích dân chúng đ

Tranh vẽ của Nhật Bản mô tả Khổng Tử, người sáng lập ra Nho giáo. Dòng chữ trên cùng ghi "Nhất đại tông sư"
Quá trình hình thành và phát triển
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ "Nho" gồm từ "Nhân" (người) đứng gần chữ "Nhu". Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách thánh hiền, có thể dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo lý…Nhìn chung "Nho" là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.
Tại Trung Quốc, Nho giáo độc tôn từ thời Hán Vũ Đế, trở thành hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị và đạo đức của Trung Hoa trong hơn 2.000 năm. Từ thế kỷ thứ 4, Nho giáo lan rộng và cũng rất phát triển ở các nước châu Á khác như Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Nho giáo nguyên thủy
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Đức Khổng Tử (sinh năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.
Thời Xuân Thu, Đức Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Đức Khổng Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học. Nho giáo bị biến thành tôn giáo thì Văn Miếu trở thành nơi dạy học kiêm chốn thờ phụng, và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Mục tiêu của Nho giáo là phát huy tính thiện của con người, khiến người dân biết bỏ ác theo thiện, giúp mọi người đạt đến trình độ đạo đức cao nhất. Để làm được điều này mỗi người phải không ngừng rèn luyện nhân cách và đạo đức của bản thân. Sách Đại Học viết: "Đạo học lớn cốt để phát huy đức sáng, đức tốt đẹp của con người, đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác theo thiện, khiến mọi người đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất. Có hiểu được phải đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất thì mới kiên định chí hướng. Chí hướng kiên định rồi, tâm mới yên tĩnh. Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc mới có thể chu toàn. Suy nghĩ sự việc chu toàn rồi, mới có thể xử lý, giải quyết công việc được thỏa đáng. Vạn vật đều có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Vạn sự đều có bắt đầu và kết thúc. Biết làm cái gì trước cái gì sau, tức là đã tiếp cận nguyên tắc của đạo rồi.".
Nho giáo chủ trương giáo hóa mọi tầng lớp trong xã hội từ bậc quân vương đến kẻ thứ dân sao cho ai ai cũng thấm nhuần đạo học của thánh hiền, phát huy tính thiện sẵn có của bản thân, tự mình sửa đổi, rèn luyện cho tốt đẹp hơn. Nho giáo khuyến khích người có học dạy cho người ít học, người có đạo đức cảm hóa kẻ vô đạo, cải tạo xã hội, đem văn minh truyền bá khắp nơi. Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở được.". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa". Đây là tư tưởng nhập thế của Nho gia, khác với tư tưởng xuất thế lánh đời của Phật gia hay Đạo gia. Khổng Tử nói: "Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi. Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa.".
Thật ra, tính chất tôn giáo của Nho giáo rất mờ nhạt so với những tôn giáo khác, những lời dạy của Nho giáo không phải là từ thánh kinh mà được đúc kết từ chính những sự kiện trong lịch sử hoặc từ những tấm gương có thật trong cuộc sống. Khổng Tử nói "Ta chỉ thuật lại mà không sáng tác. Ta tin tưởng và hâm mộ văn hóa cổ. Ta trộm ví mình như Lão Bành.". Nho giáo khuyên thế hệ sau cần biết học hỏi những thành công và tránh lặp lại những thất bại của thế hệ trước, là một học thuyết hướng dẫn về quan hệ xã hội và tu dưỡng bản thân.
Tống Nho
Phong trào phục hưng Nho giáo thời hiện đại
Đến thế kỷ 20, với sự sụp đổ của chế độ quân chủ, Nho giáo mất vị thế độc tôn, thậm chí bị bài trừ ở ngay tại Trung Quốc trong thập niên 1960-1970 khi Mao Trạch Đông làm chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Đến đầu thế kỷ 21, đứng trước sự suy thoái của đạo đức xã hội, những giá trị của Nho giáo về tu dưỡng, giáo dục con người dần được coi trọng trở lại và được thúc đẩy thành phong trào tại các nước Đông Á.
Phục hưng Nho giáo trong thế kỷ XXI là phong trào đang lên ở Đông Á, nó xuất phát từ Trung Quốc và lan truyền ra các khu vực lân cận. Nhiều hội thảo quốc tế về phục hưng nền Nho học đã được tổ chức ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tập hợp các nhà nghiên cứu Nho giáo trong khu vực và trên thế giới đã kiến lập Hiệp hội nghiên cứu Nho giáo quốc tế. Trong buổi Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Hàn Quốc 2010, một số báo cáo ghi nhận "mặt trái của quá trình Tây phương hóa (nói cách khác là hiện đại hóa) đã làm cho xã hội Đông Á mất dần tôn ti trật tự, tinh thần cộng đồng và đoàn kết xã hội. Lớp trẻ dần chạy theo những thứ hào nhoáng của văn minh hiện đại mà bỏ xa dần các quan niệm hiếu nghĩa, trung chính, tiết độ". Các báo cáo này nhấn mạnh giá trị tinh thần của Nho giáo sẽ là công cụ hữu hiệu nhằm khôi phục lại giá trị đạo đức của xã hội.

Học viện Nho giáo tại thành phố Andong, Hàn Quốc
Từ năm 2005, chương trình Bách gia Giảng đường của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã khởi xướng phong trào đọc lại Luận ngữ nhằm phục hồi đạo đức truyền thống. Ban Quốc học Đại học Thanh Hoa tính học phí 26.000 nhân dân tệ cho một khóa học về đạo đức Nho gia, Đại học Phục Đán thu mỗi người 38.000 nhân dân tệ, và khóa học cổ văn ngoài giờ cho trẻ em cũng có học phí rất cao. Từ 2004 cho tới năm 2020, Chính phủ Trung Quốc có kế hoạch thành lập hơn 1.000 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để quảng bá văn hóa truyền thống Trung Hoa.
Tại Hàn Quốc, rất nhiều người nhận thấy rõ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc đang mất dần đi. Sau cuộc chiến liên Triều 1950-1953, Hàn Quốc áp dụng hệ thống giáo dục chịu nhiều ảnh hưởng của giáo dục phương Tây, Nho giáo bị công kích và bị coi là lỗi thời. Ông Pak Seok-hong nhấn mạnh sự sai lầm của hệ thống giáo dục đó: việc quá nhấn mạnh vào học tiếng Anh và toán đã chiếm chỗ của các môn học như đạo đức và lịch sử. Ông thấy đất nước "đang biến thành vương quốc đầy súc vật": người trẻ chửi người già trên tàu, những đứa trẻ tự tử để khỏi bị bắt nạt... Sự hòa hợp, kính trọng người cao tuổi và lòng trung thành với Tổ quốc - những đức tính đó nay đã phai nhạt trong giới trẻ Hàn Quốc. Pak Seok-hong nói: "Chúng ta đã xây dựng được nền kinh tế mạnh mẽ, nhưng đạo đức của dân tộc đang trên bờ vực của sự sụp đổ. Chúng ta phải khôi phục lại nó và các Seowon (học viện Nho giáo) là nơi chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời".

Học sinh tham gia ngoại khóa tại một Học viện Nho giáo ở Hàn Quốc
Hiện nay, số lượng học sinh Hàn Quốc đến các học viện Nho giáo để học tập ngoại khóa ngày càng tăng, lên tới hàng trăm ngàn học sinh mỗi năm. Tại đây, học sinh được dạy những lễ giáo đạo đức từ lâu đã không còn xuất hiện tại trường học, từ việc ăn tối, uống trà đến việc thưa chuyện lễ phép với cha mẹ. Theo ông Pak Sung-jin - giám đốc điều hành của Hiệp hội Seowon quốc gia Hàn Quốc, có khoảng 150 học viện Nho giáo ở khắp Hàn Quốc đã mở trở lại các chương trình ngoại khóa tương tự. Ông tin rằng người Hàn Quốc đương đại cần từ bỏ cách nghĩ thiển cận coi Nho giáo là "lỗi thời" và cần nghiêm túc học hỏi lại nhiều giá trị tinh thần, cách đối nhân xử thế từ xã hội xưa.
Đại diện cho học giả Hàn Quốc, giáo sư An Bỉnh Chu, Đại học Thành Quân Quán đã nêu lên lời cảnh báo: "Ngày nay, xã hội đầy tiếng kêu cứu phản ánh nỗi lo lắng về sự hoang tàn của nhân tâm. Môi trường bị ô nhiễm, luân lý bị suy đồi, con người phơi trần nỗi khát khao truy cầu lợi ích và dục vọng. Nội tâm con người hoang tàn, giá lạnh. Quan hệ giữa người và người chỉ còn là cạnh tranh vì lợi ích. Tất cả loài người đang đứng trước nguy cơ diệt vong". Và chính từ những báo động trên, ông đã nêu lên nên trở lại những nguyên lý đạo đức cuộc sống mà Lý Hoảng (1501-1570), đại sư Nho gia Hàn Quốc đã từng nhắc nhở trong vấn đề tâm học đạo đức. Ở hội nghị quốc tế "Nho giáo với xã hội tương lai" ở An Đông - Hàn Quốc (10-2001), các giáo sư Pháp, Nga, Mỹ, Anh v.v... đều có ý muốn nghiên cứu tư tưởng Nho giáo nhằm tìm con đường giải quyết những bế tắc trong quan hệ con người, xã hội và đặc biệt là gia đình ở phương Tây trong giai đoạn hiện tại. Họ đều đề cao đạo đức "Nhân", "Lễ", "Nghĩa" của Nho giáo.
Chính phủ Trung Quốc đã chi hàng triệu USD cho hai chương trình nghiên cứu và biên soạn Nho tạng tại Đại học Nhân dân và Đại học Bắc Kinh. Bộ Nho tạng tinh hoa của Đại học Bắc Kinh với tổng số 500 tập dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2015. Hai chương trình biên soạn Nho tạng nói trên là một hoạt động quy mô lớn chưa từng có để hiệu chỉnh và kết tập điển tịch Nho học lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đồng thời đây cũng là một lần tổng kiểm kê di sản điển tịch Nho học trên quy mô toàn thế giới. Tại Hàn Quốc và Nhật Bản, hai đại học hàng đầu là Đại học Seoul và Đại học Tokyo cũng đều đã thành lập các trung tâm biên soạn Nho tạng riêng với kế hoạch hoạt động quy mô lớn. Trong xu hướng nghiên cứu Nho giáo đang diễn ra rất mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, nghiên cứu kinh điển Nho gia có vị trí đặc biệt quan trọng.
Nội dung cơ bản
Tổ chức xã hội
Học thuyết về quản lý quốc gia và làm lợi cho dân của Nho giáo là một phần của truyền thống văn hóa Trung Quốc rất sâu sắc. Nó đã thiết lập cho mình những lý tưởng đạo đức và hệ thống giá trị tiêu chuẩn xác lập nền tảng cho xã hội Đông Á trong hàng ngàn năm. Nho giáo giúp các xã hội này có tính tổ chức cao, duy trì trật tự xã hội, giúp gìn giữ các tiêu chuẩn đạo đức của xã hội ở một mức khá cao, giúp xã hội văn minh và ổn định lâu dài. Nho giáo tiến hành tất cả những điều đó không phải bằng vũ lực mà bằng chủ trương giáo dục toàn diện từ vua quan đến nhân dân để mỗi người đều tự giác thực hiện tùy theo vai trò của mình, đó cũng là lý do tại sao những nước sùng đạo Nho đều rất coi trọng giáo dục. Sách Đại Học có câu: "Làm vua thì hết mình thực hiện đức nhân. Làm bề tôi thì hết mình thực hiện đức kính. Làm con thì hết mình thực hiện đức hiếu. Làm cha thì hết mình thực hiện đức từ. Cùng người trong nước quan hệ với nhau phải hết mình thực hiện đức tín."
Trong thế giới quan Nho giáo, cả 3 yếu tố Quốc gia - Gia đình - Cá nhân đều có liên hệ chặt chẽ với nhau. Nho giáo xem cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu thành nên gia đình và xã hội. Mỗi cá nhân có đức hạnh tốt thì gia đình, xã hội sẽ tốt và ngược lại.
"Cái căn bản của thiên hạ là quốc gia
Cái căn bản của quốc gia là gia đình
Cái căn bản của gia đình là thân mình vậy."
Sách Đại Học viết "Muốn trị quốc tốt trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình. Người trong gia đình, gia tộc mình mà không giáo dục được thì sao có thể giáo dục được người khác... Một nhà thực hiện nhân ái có thể dấy lên cả nước một phong trào nhân ái. Một nhà thực hiện khiêm nhường, có thể dấy lên cả nước một phong tục khiêm nhường. Còn nếu một người tham lam tàn bạo, tất dấy lên cả nước phạm thượng, làm loạn... Nếu bản thân mình che giấu những hành vi không hợp với đạo trung thứ thì sao có thể giáo dục được người khác làm theo đạo trung thứ. Cho nên muốn trị nước tốt, trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình."

Một hình vẽ trong sách Nhị thập tứ hiếu. Đạo hiếu là đức tính được nhà Nho coi là nền tảng cho đạo đức xã hội
Từ thời nhà Hán, Nho giáo đã trở thành trung tâm cho việc quản lý xã hội, duy trì đạo đức tại Trung Hoa trong suốt hơn 2000 năm. Năm 1397, Minh Thái Tổ ra lệnh mỗi làng phải dán một tờ ghi sáu điều Đạo Nho để dân noi theo: "Phải hiếu thảo với cha mẹ, phải kính trọng người già, phải thờ phụng tổ tiên, phải dạy con nên người, phải yên ổn làm ăn". Năm 1670, vua Khang Hi nhà Thanh cũng ra một sắc lệnh gồm 16 điểm, dạy dân phải hiếu lễ, cần kiệm, nộp thuế đúng kì... và ra lệnh các hương chức và kẻ sĩ trong làng cứ nửa tháng một lần đọc và giảng cho dân nghe. Những kẻ bất hiếu, ăn cắp ăn trộm, cưỡng hiếp gian dâm... phải ghi tên vào một cái bảng treo trước cổng làng để nhân dân lấy đó làm răn.
Nhờ đạo Nho, các triều đình ít phải can thiệp vào đời sống của dân, cho các làng tự lập hương ước mà gần như tự trị. Một học giả Châu Âu khen người Trung Hoa tổ chức xã hội giỏi hơn người La Mã và mọi đế chế khác. Các kẻ sĩ ở mỗi làng, tổng, huyện (một vị trưởng lão trong làng, một thầy đồ hay một vị khoa bảng)... được dân tin, giúp chính quyền được nhiều việc cai trị, giáo dục, hòa giải các vụ kiện, trị bệnh, giữ an ninh. Họ được dân coi trọng hơn cả các quan lại, mà quan lại cũng phải nể họ. Vì vậy, Trung Hoa đất đai mênh mông mà số quan lại khá ít (cuối đời Thanh, Trung Quốc có 450 triệu dân mà chỉ cần 100.000 quan lại), triều đình không tốn nhiều lương bổng mà vẫn duy trì được xã hội ổn định suốt hàng trăm năm.
Đặc biệt là cứ mỗi lần đất nước bị họa vong quốc thì lại có hàng trăm kẻ sĩ Nho giáo sẵn sàng liều mình chống ngoại xâm, nếu chẳng may thất bại thì họ liền tuẫn quốc chứ không chịu sống nhục. Đã vậy, không chỉ nam giới liều thân hộ quốc nơi tiền tuyến mà phụ nữ ở hậu phương cũng một lòng chung thủy để người nam nhi an tâm ra đi gánh vác mệnh nước, nếu chồng hy sinh họ sẵn sàng tuẫn tiết để giữ lòng son. Đó là đặc điểm của những dân tộc thấm nhuần đạo Khổng. Trong lịch sử Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản... có hàng trăm tấm gương như vậy (Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị, Lê Tuấn Mậu, Văn Thiên Tường, Dương gia tướng,...). Đó là nguồn gốc tinh thần chống ngoại xâm bền bỉ của các dân tộc Á Đông chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Theo Tommy Koh, Giám đốc Viện nghiên cứu chính sách Singapore, dưới ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, tất cả các xã hội Đông Á đều không ưa chủ nghĩa cá nhân cực đoan, không thích tự do báo chí theo kiểu lá cải, thổi phồng công luận, mặc cho báo chí thoả mãn cả những thị hiếu tầm thường, lảng tránh hoặc xem nhẹ chức năng giáo dục, hướng thiện cần thiết đối với xã hội. Không phải Đông Á phản đối tự do báo chí, song nếu báo chí được phép tự do đến mức phá vỡ những ranh giới đạo đức và lẽ phải, trở thành diễn đàn của những kẻ bất lương... thì không thể nhân danh tự do mà chấp nhận được. Thái độ này nằm trong logic chung của các giá trị gia đình, cộng đồng, đạo đức và trách nhiệm. Văn hoá Nho giáo và cả Phật giáo đều không chấp nhận lý lẽ của việc con cái kiện tụng cha mẹ, trừ những trường hợp hãn hữu khi cha mẹ không còn xứng đáng. Với các nền văn hoá này, mọi chuyện thuộc quan hệ cha mẹ - con cái đều cần phải xử lý trong khuôn khổ giá trị huyết thống. Vượt ra ngoài khuôn khổ này, quan hệ cha con sẽ không còn. Thực tế cho thấy, trong các xã hội Đông Á, một khi quan hệ huyết thống đã bị đưa ra Tòa án để xét xử, thì dẫu mọi chuyện có được giải quyết ổn thoả, tình nghĩa cũng chẳng còn hoặc chẳng còn là bao.
Lễ nghi
Nho giáo rất xem trọng Lễ nghi vì nó là biểu hiện của một xã hội văn minh và có trật tự. "Lễ" là những quy tắc mang tính hình thức được xã hội thừa nhận để bày tỏ sự tôn trọng đối với người khác, với cộng đồng hoặc với những định chế xã hội và để nhận được sự tôn trọng của xã hội. Việc giữ Lễ là một cách tu thân và chứng tỏ con người biết tuân thủ những nguyên tắc đạo đức trong quan hệ với người xung quanh. Một xã hội không biết giữ Lễ là xã hội hỗn loạn, kém văn minh và suy đồi. Lễ giáo phai nhạt cũng là biểu hiện các mối quan hệ giữa con người trong xã hội đã xấu đi, trật tự xã hội đã suy yếu. Lễ nghi sẽ tạo ra một xã hội hài hòa trong đó mọi người đều tự tiết chế trong mối quan hệ giữa người với người, không để những cảm xúc tiêu cực biến thành hành động mạo phạm, bất kính với người khác. Hữu Tử nói: "Tác dụng của lễ đạt được sự thống nhất, hài hòa mới là đáng quý. Phương pháp trị nước của những bậc vua hiền thời cổ đại có đúng đắn là ở chỗ này: việc lớn việc nhỏ đều tuân thủ nguyên tắc hài hòa. Nhưng có điều không nên làm: chỉ biết hài hòa là quý, rồi trong mọi việc chỉ biết hài hòa, không lấy lễ nghĩa để tiết chế thì việc gì cũng không xong.". Khổng Tử nói "Người quân tử học rộng về văn chương lại biết dùng lễ để chế ước, ràng buộc mình sẽ không bao giờ xa Kinh phản Đạo.". Mỗi xã hội, mỗi thời đại đều có những nghi thức của riêng nó nhưng chung quy không xã hội văn minh nào có thể bỏ đi những lễ nghi mà chỉ thay đổi đối tượng, mục đích hoặc hình thức.
Nho giáo chủ trương lễ nghi phải phù hợp với địa vị xã hội, công lao, đức độ, tài năng, tuổi tác của người hành lễ và người nhận lễ. Ví dụ như "Nếu cha là quan đại phu, con là kẻ sĩ, khi cha chết thì dùng lễ của quan đại phu mà chôn cất cha, dùng lễ của kẻ sĩ thờ cúng cha." hoặc "Khi cử hành tế lễ ở tông miếu, phải biết sắp xếp bài vị đúng thứ tự, theo đẳng cấp thứ bậc tước vị đã được ông cha quy định, nhằm phân biệt rõ công lao, đức độ, tài năng. Khi mọi người cùng uống rượu thì người ít tuổi, thứ bậc thấp mời người nhiều tuổi, thứ bậc cao trước. Mục đích là đem lễ nghĩa về chữ hiếu quán triệt đến người ít tuổi.". Tuy nhiên cũng có những quy tắc chung mà từ quân vương đến thứ dân đều phải tuân thủ như "Phép để tang ba năm thực hiện từ thứ dân cho đến thiên tử (vua). Để tang cha mẹ phải là ba năm, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, tất cả đều như nhau (bởi con người trong 3 năm đầu đời đều "đói không thể tự ăn, rét không thể tự mặc", tất cả đều phải nhờ do cha mẹ khổ công nuôi nấng)".
Lễ phải bắt nguồn từ sự tôn trọng chân thành của người hành lễ đối với người nhận lễ thì mới có giá trị. Khổng Tử nói: "Một người không có lòng nhân sao có thể hành được lễ ?". Khổng Tử phê phán những lễ nghi hình thức giả dối. Ông nói "Người đời trước đối với lễ nhạc, coi trọng phối hợp thích đáng giữa nội dung và hình thức thì bị coi là lạc hậu quê mùa. Người đời sau đối với lễ nhạc, coi trọng hình thức hơn nội dung thì lại bảo là người quân tử. Nếu sử dụng lễ nhạc, ta tình nguyện đi theo các bậc tiền bối.". Trái với tập quán của người đời thích những lễ nghi phô trương để chứng tỏ sự giàu sang, quyền lực của bản thân, khi được hỏi về gốc của lễ, Khổng Tử trả lời: "Vấn đề của ngươi hỏi thật quá lớn! Lễ nói chung đi kèm với xa hoa lãng phí thì không bằng tiết kiệm. Nghi thức mai táng mà cầu kỳ, lòe loẹt thì không bằng trong lòng thật sự đau buồn.".
Trong các loại lễ nghi, hai lễ nghi phổ biến nhất, từ đấng quân vương cho đến kẻ thứ dân ai cũng thực hiện, được Nho giáo rất xem trọng là tang lễ và việc cúng tế tổ tiên. Tăng Tử nói: "Phải cẩn thận làm tốt tang lễ cho cha mẹ khi qua đời; thành tâm, thành ý khi cúng tế tổ tiên. Được như vậy, dân chúng được cảm hóa, phong tục đạo đức của dân chúng ngày một tốt đẹp và thuần hậu.". Ngày nay, tại các nước Đông Á tang lễ và cúng tế tổ tiên vẫn là các lễ nghi quan trọng nhất, được tổ chức chu đáo nhất. Việc không tổ chức các lễ nghi này, không tham dự hoặc làm qua loa có thể bị xem là bất kính.
Quan hệ xã hội
Theo Nho giáo, trong xã hội có 5 mối quan hệ cơ bản là: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Để thực hiện tốt 5 mối quan hệ này cần có 3 đức tính: trí, dũng, nhân.
Trong các mối quan hệ xã hội, con người phải đối xử tốt với người khác, "mình không muốn bị người khác đối xử thế nào thì cũng không nên đối xử với người khác như vậy". Người chỉ biết làm việc vì lợi ích của mình nhất định sẽ chuốc lấy nhiều oán hận. Đối với người lãnh đạo thì càng phải ghi nhớ và thực hành điều này, như sách Đại Học viết "Người quân tử phải hiền hòa, nhân đức, yêu thích điều dân yêu thích, ghét điều dân ghét. Đó mới gọi là làm cha mẹ của dân.". Nhân chi sơ, tính bổn thiện vì vậy mỗi người hãy đối nhân xử thế phù hợp với tính thiện trời ban cho mình, xử thế phải hết sức cẩn thận, chu toàn, thành thật. Sách Trung Dung viết "Phải hết sức răn mình cẩn thận về những điều không ai nhìn thấy, e sợ những việc không ai nghe thấy. Không gì dễ hiện ra bằng điều giấu giếm, không gì dễ lộ ra bằng điều nhỏ nhặt. Cho nên người quân tử khi xử thế một mình, từ lời ăn tiếng nói đến việc làm cụ thể càng phải cẩn thận, chu đáo hơn bao giờ hết.". Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử chủ trương "Vua sử dụng bề tôi phải theo lễ, bề tôi phụng thờ vua phải theo trung.". Nho giáo đề cao sự trung thành đối với nhà nước quân chủ vì đó là nhân tố góp phần vào sự ổn định của xã hội. Khổng Tử nói "... Vua Vũ vương được hai phần ba thiên hạ, vẫn giữ khí tiết của một trung thần phụng thờ triều Ân. Đức của vua Vũ vương có thể nói là đức cao quý nhất.".
Trong mọi hoàn cảnh, con người cần kiềm chế cảm xúc, làm chủ bản thân, không biểu hiện cảm xúc ra ngoài một cách thái quá, đó gọi là trung hòa. Biết trung hòa cảm xúc thì con người ta mới cư xử đúng mực. Sách Trung Dung viết "Khi tình cảm như: vui mừng, hờn giận, đau thương, khoái lạc chưa biểu hiện ra thì gọi là trung; biểu hiện ra rồi nhưng phù hợp, đúng mức thì gọi là hòa. Trung là điều cơ bản lớn nhất trong thiên hạ. Hòa là chuẩn tắc phổ biến nhất trong thiên hạ. Trung hòa mà đạt đến tột cùng thì mọi cái trong trời đất đều ở vị trí thỏa đáng, vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở."
Nho giáo quan niệm Trung dung là sự ôn hòa, cân bằng, không thái quá, không thiên lệch về bên này hoặc bên kia. Trong đối nhân xử thế, Trung dung là không quá cương cũng không quá nhu, không thái quá cũng không bất cập. Trong chính trị, Trung dung là không quá khích, cực đoan; không cực tả cũng không cực hữu, không nhảy từ thái cực này sang thái cực kia: "Lời nói và việc làm của người quân tử thì phù hợp với chuẩn tắc trung dung, còn kẻ tiểu nhân thì phản lại trung dung. Người quân tử luôn giữ được trạng thái trung hòa, không để thái quá hay bất cập. Kẻ tiểu nhân thì không hề lo sợ, nể nang hay e dè ai hết, nên cách nói năng của và hành động của kẻ tiểu nhân không thái quá thì cũng bất cập.". Đạo Trung dung không chỉ dành cho nhà cầm quyền, người có học thức, bậc quân tử mà phổ biến khắp thiên hạ, ai ai cũng có thể hiểu và thi hành kể cả những người ngu dốt, nhưng để đạt đến mức độ cao sâu thì thánh nhân cũng chưa làm nổi: "Đạo sở dĩ không được thực hành, ấy là vì người thông minh có trí tuệ thì nhận thức và thực hành thái quá, người kém hiểu biết thì nhận thức bất cập...... Đạo của người quân tử vừa to lớn bao la, vừa vô cùng nhỏ bé. Những người ngu dốt kém cỏi cũng có thể hiểu và làm theo được, nhưng đạt tới chỗ cao sâu nhất thì đến thánh nhân cũng có điều chưa thể làm nổi.".
Để giữ được đạo Trung dung, con người vừa phải sống hòa đồng với mọi người vừa phải có tư duy độc lập, luôn giữ chính kiến của mình, luôn giữ đạo Trung dung, không bị lôi cuốn theo đám đông, không bị hoàn cảnh lung lạc. Đây là sức mạnh chân chính của người quân tử:
"Người quân tử sống hòa khí với mọi người, nhưng không buông trôi theo thói tục của người đời. Giữ trọn đạo Trung dung, không hề thiên lệch bên nào, khi quốc gia yên ổn cũng như khi loạn lạc, có chết cũng không thay đổi chí hướng của mình, đấy mới là sức mạnh chân chính.". Khổng tử nói "Người quân tử phải theo đạo mà đi, không được nửa đường thì bỏ dở. Người quân tử chỉ một lòng theo đạo Trung dung mà thôi. Còn như phải trốn đời ở ẩn nơi rừng sâu núi thẳm cũng không hối hận, chỉ có thánh nhân mới làm được như vậy."".
Tuy nhiên, người đời vô minh, không nhận thức được tính chất minh triết, tốt đẹp của đạo Trung dung nên luôn hành động thái quá hay bất cập khiến xã hội hỗn loạn, suy đồi, xung đột nảy sinh; tạo ra vô số bi kịch trong cuộc sống đời thường cũng như trong đời sống chính trị. Khổng Tử từng than thở "Đạo Trung dung này rất mực tốt đẹp. Từ lâu dân chúng đã thiếu hẳn đạo này.".
Đa phần xung đột đều bắt nguồn từ sự hiểu lầm, khi bị người khác hiểu lầm thì không nên oán giận họ vì sẽ làm xung đột càng trầm trọng hơn. Khổng Tử nói: "Người không hiểu ta mà ta chẳng oán giận họ, như vậy không phải là người quân tử ư?", "Không sợ người không hiểu ta mà chỉ sợ ta không hiểu người.". Khi xảy ra mâu thuẫn, xung đột, nếu biết khoan dung, tha thứ cho những lỗi lầm của người khác; những thiệt hại, khổ đau người khác gây ra cho mình thì thù hận sẽ chấm dứt. Ngược lại nếu tìm mọi cách trả thù thì thù hận kéo dài không bao giờ chấm dứt. Khổng Tử nói "Bá Di, Thúc Tề, hai người này thường cho qua những thù hận cũ nên người oán hận họ rất ít.".
Trong xã hội có nhiều hạng người: người giàu, người nghèo, người lãnh đạo, người thừa hành... Nho giáo khuyên con người nên làm việc theo chức trách, có cách sống phù hợp với hoàn cảnh và địa vị xã hội của mình. Ai làm như vậy sẽ luôn thấy thoải mái, không so đo mình với người khác cũng không nảy sinh bất mãn. Người thích dũng cảm mà lại căm ghét sự nghèo hèn của mình thì rất dễ làm loạn. Sách Trung Dung viết: "Người quân tử nên dựa vào địa vị hiện tại của mình mà làm việc, không nên ham những cái ngoài bổn phận của mình... Người quân tử ở bất kỳ hoàn cảnh nào đều có thể điềm nhiên tự tại, bình tĩnh tự đắc, không kêu ca phàn nàn.". Mỗi người đều có vị trí riêng trong hệ thống phân công lao động xã hội phù hợp với năng lực, trí tuệ và hiểu biết của mình. Những người ở địa vị cao phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện, thử thách, va chạm lâu dài; từng thành công và thất bại nhiều lần mới đảm nhận được chức trách mà họ đang nắm giữ. Người lãnh đạo cấp cao có đội ngũ cố vấn, giúp việc có trình độ nên mới xử lý nổi những vấn đề trong phạm vi trách nhiệm của họ. Nếu mỗi người không tập trung làm tốt phận sự của mình mà cứ lo những chuyện vượt quá tầm hiểu biết, khả năng nhận thức, năng lực và trách nhiệm của mình thì chỉ dẫn xã hội đến hỗn loạn. Khổng Tử nói "Không ở vào chức vị nào thì đừng bàn tính về chính sự của chức vị ấy.". Chính vì thế, con người nên gắng làm tốt công việc hiện tại của mình chứ không cần phải theo đuổi, cầu cạnh chức tước, địa vị. Việc thăng tiến là điều tự nhiên nếu người đó làm tốt. Kẻ tiểu nhân ngược lại luôn theo đuổi hư danh, địa vị ngoài khả năng của mình. Sách Trung Dung viết "Khi ở địa vị cao, không lăng mạ chèn ép người dưới; khi ở địa vị dưới, không nịnh bợ cầu cạnh người trên; lúc nào cũng giữ bản thân ngay thẳng, chẳng cầu mong xin xỏ người khác, được như vậy thì trên không oán trời, dưới không trách người, luôn ở địa vị ổn định để chờ mệnh trời. Còn kẻ tiểu nhân buộc phải mạo hiểm để theo đuổi chức vụ, địa vị ngoài khả năng của mình.".
Theo quan niệm đạo đức Nho giáo thì con người sống trong xã hội không nên tranh chấp vì danh lợi. Điều đáng để mọi người thi đua là sống sao cho hợp đạo lý, đối xử nhau sao cho có tình có lý, có lễ nghĩa. Khổng Tử nói: "Người quân tử không việc gì phải tranh đua. Nếu có việc đáng tranh đua thì chỉ có ở cuộc thi bắn cung. Khi đọ tài bắn cung cũng phải giữ lễ, vái chào lẫn nhau trước rồi sau đó mới bắn cung. Bắn cung xong ngồi nâng chén chúc mừng lẫn nhau. Đây là điều đáng tranh đua của người quân tử.". Khi chưa có chức vụ, địa vị thì "Không sợ buồn vì không có chức vụ địa vị, chỉ buồn vì không có tài đức để làm tròn chức vụ địa vị ấy. Không sợ người khác không biết mình, mà phải cầu mong làm sao có năng lực làm cho người khác hiểu mình.". Nếu hoàn cảnh sống, chức tước, địa vị không được như ý thì phải xem lại bản thân mình chứ không nên trách trời, oán người hay đổ lỗi cho nhà nước. Khổng Tử nói:
"Phép bắn cung cũng giống như đạo người quân tử vậy. Khi bắn mũi tên không trúng đích, phải trở lại tìm nguyên nhân ở chính bản thân mình."... người có chức lớn tất có địa vị, danh tiếng xứng đáng và hưởng thọ lâu dài... người có đức lớn, nhất định được trời ban cho chức vụ để làm việc có ích cho đời.".
Trong tất cả mọi mối quan hệ xã hội như với cha mẹ, với cấp trên, với bạn bè, Nho giáo rất đề cao sự thành thật. Người thành thật sẽ được mọi người tin cậy. Con người trước hết phải thành thật với bản thân mới có thể thành thật với mọi người. Theo sách Trung Dung "Muốn bản thân thành thật cũng có cách của nó: nếu không hiểu rõ thế nào là đức thiện, tính thiện thì cũng không thể bồi dưỡng cho mình có lòng thành thật với bản thân.". Theo Nho giáo, có một số người vốn dĩ tự nhiên đã thành thật, một số khác phải rèn luyện bản thân để trở nên thành thật: "Thành thật tự nhiên vốn là đạo trời. Còn tự mình nỗ lực đạt đến thành thật là đạo người. Bậc thành thật tự nhiên không phải cố gắng cũng tự nhiên thích hợp với đạo, không phải suy nghĩ cũng hiểu được đạo, cứ ung dung mà hợp với đạo trung dung, đó là bậc thánh nhân. Còn người tu tập để đạt tới thành thật thì phải chọn lấy điều thiện mà kiên trì theo đuổi. Muốn vậy, phải học tập cho sâu rộng, hỏi han cho kỹ lưỡng, suy nghĩ cho thận trọng, phân biệt cho sáng tỏ, thực hành cho thấu đáo.". Muốn đạt đến thành thật thì "Đối với việc nhỏ mà dám bỏ công sức học hỏi, suy nghĩ, xem xét và thi hành đạo lý thì cũng xem như đã đạt đến thành thật. Có lòng thành thật thì sẽ biểu hiện ra ngay. Hiện rõ ra rồi thì sẽ sáng chói. Sáng chói thì sẽ cảm động đến lòng người.". Theo sách Trung Dung, người đã đạt đến đức thành thật cao cả thì "dẫu không biểu hiện ra mà vẫn sáng rõ, dẫu không động mà vẫn biến hóa, dẫu không làm mà cũng thành công.". Việc nịnh hót người khác, giả bộ hiền lành, cung kính thái quá, đem oán hận giấu kín trong lòng nhưng bề ngoài vẫn giả bộ hữu hảo bị Nho giáo đánh giá là hành vi xấu. Khổng Tử nói:
"Dùng những lời lẽ hay ho để nịnh hót, làm vừa lòng người và tỏ vẻ hiền lành, như vậy không phải là người có lòng nhân."... "Những người dùng lời lẽ trau chuốt ngọt xớt, giả bộ hiền lành, cung kính thái quá, loại người này theo Tả Khâu Minh là rất đáng sỉ nhục. Khâu ta cũng cho là rất đáng sỉ nhục. Đem oán hận giấu kín ở trong lòng nhưng bề ngoài vẫn giả bộ hữu hảo với người, loại người như vậy Tả Khâu Minh cũng cho là đáng sỉ nhục. Khâu ta cũng cho là đáng sỉ nhục.:
Tuy nhiên, người đời lại thích những lời ngọt ngào, giả dối. Sự thật thì khó nghe và dễ làm mất lòng người. Khổng Tử nói "Nếu không có mồm mép nói dễ nghe như Chúc Đà và vẻ đẹp như công tử Triều nước Tống thì đời nay khó mà tránh được người ta ghét bỏ, xa rời.". Vì vậy phải làm sao giữ được sự thành thật mà vẫn không làm mất lòng người, không bị đánh giá là thô lỗ, thiếu tế nhị. Đó là nghệ thuật ứng xử cần khổ công rèn luyện. Khổng Tử nói "Chất phác mà bỏ qua văn vẻ thì thô tục. Văn vẻ mà bỏ qua chất phác thì phù phiếm. Văn vẻ và chất phác hài hòa với nhau mới là người quân tử.". Nếu làm được như vậy có thể sống ngay thẳng giữa cuộc đời. Khổng Tử nói "Con người ta sống được là nhờ ngay thẳng. Kẻ không ngay thẳng tuy nhiên cũng sống được, nhưng chẳng qua nhờ may mắn mới tránh được tai họa đó thôi.". Người ngay thẳng không sợ bị kẻ khác hãm hại, cây ngay không sợ chết đứng. Khi quan tư mã nước Tống là Hoàn Đồi âm mưu giết Khổng Tử bằng cách chặt cây mà ông thường ngồi dạy học trò về đạo làm người, Khổng Tử nói "Trời đã phú cho ta phẩm đức, Hoàn Đồi kia còn có thể làm gì được ta ?".
Khi đánh giá người khác, đừng đánh giá qua lời nói mà hãy đánh giá qua hành động của người đó. Khổng Tử nói: "Nhìn kỹ cách người ta làm, xét người ta làm vì cái gì, rồi xét kỹ người ta có vui lòng mà làm hay không. Như vậy người ta không có cái gì có thể giấu được, làm sao mà giấu được ?". Mỗi người hãy chứng tỏ bản thân mình bằng việc làm chứ không phải bằng lời nói. Như vậy mới là người quân tử. Tử Cống hỏi: "Thế nào là người quân tử ?". Khổng Tử nói: "Trước hết thực hành lời mình nói đã, sau mới nói ra.". Năng lực mỗi người khác nhau nên không thể đòi hỏi kết quả giống nhau được. Chỉ cần người đó toàn tâm, toàn ý là được. Khổng Tử nói: "Thi bắn cung, không nhất thiết phải xuyên qua bia, bởi vì sức lực của mỗi người không giống nhau, đây là quy tắc bắn cung thời cổ.".
Trong xã hội không ai hoàn hảo. Từ người lãnh đạo cao nhất cho đến người dân bình thường đều có thể mắc sai lầm. Sai lầm của người lãnh đạo nếu không bị chỉ ra có thể biến thành sai lầm của tập thể hoặc cả một quốc gia. Sai lầm có thể bị che giấu khiến nó ăn sâu vào đời sống xã hội, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì thế muốn xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, tránh được những hậu quả tiêu cực do sai lầm của con người gây ra thì sai lầm của cá nhân hoặc cộng đồng phải được phơi bày ra ánh sáng để người mắc sai lầm, những người khác và các thế hệ tương lai thấy để sửa sai và tránh lặp lại. Ở đâu thiếu minh bạch, ở đó cái xấu, cái ác sẽ sinh sôi nảy nở và ngày càng lớn mạnh. Khổng Tử nói: "Dám mạnh dạn đấu tranh, phê bình, chỉ trích tệ hại, thói hư tật xấu thì tự nhiên họa hại sẽ tiêu tan.". Tuy nhiên việc phê bình, góp ý người khác cũng cần tinh tế để ý kiến đóng góp được tiếp thu mà người nghe cũng không khó chịu hoặc cảm thấy bị xúc phạm. Phải biết kết hợp giữa khen và chê vì ai cũng có ưu điểm và nhược điểm. Nếu chỉ thấy nhược điểm của một người rồi tìm mọi cách phê bình, chỉ trích mà lờ đi ưu điểm của người đó là cách đối xử thiếu tế nhị thậm chí là ác ý. Tử Du nói: "Phụng thờ vua nếu chỉ biết luôn can gián vua thì sẽ chuốc lấy nhục nhã. Đối đãi với bè bạn, nếu cứ luôn luôn góp ý kiến cho bạn thì bạn sẽ xa mình.". Ngược lại, người mắc sai lầm cũng phải dũng cảm, cầu thị nhận sai lầm và sửa sai. Khổng Tử nói "Lời nói đúng đắn có thể không tiếp thu ư ? Nhưng chỉ tiếp thu chưa đủ, mà còn phải sửa chữa sai lầm nữa mới là điều đáng quý. Lời nói mềm dẻo, nhẹ nhàng, từ tốn thì có thể không vui sướng chăng ? Nhưng chỉ vui sướng chưa đủ, mà còn phải suy nghĩ mới là điều đáng quý. Chỉ biết vui sướng mà không biết suy nghĩ, chỉ biết tiếp thu mà không chịu sửa chữa, loại người như vậy ta chẳng còn cách nào nữa.". Một lần có người chỉ ra sai lầm của Khổng Tử, ông nói "Ta thật may mắn, giả dụ có sai lầm thì người ta cũng biết được".
Nho giáo cũng phê phán tệ bè phái, chia rẽ trong xã hội, xem tinh thần đoàn kết là một phẩm chất đạo đức của người quân tử còn óc bè phái là đặc tính của kẻ tiểu nhân. Khổng Tử nói: "Người quân tử đoàn kết rộng rãi với mọi người, chứ không phải chỉ câu kết phe cánh. Kẻ tiểu nhân chỉ biết câu kết phe cánh, chứ không biết đoàn kết rộng rãi với mọi người.".
Thuật lãnh đạo
Nho giáo chủ trương: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (Dân là quý nhất, rồi đến đất nước, cuối cùng mới là vua)". Người lãnh đạo chân chính phải xem việc cai trị thiên hạ là bổn phận, trách nhiệm của mình chứ không phải vì lợi ích cá nhân hay là thứ giúp bản thân mình trở nên cao quý. Khổng Tử nói "Cao quý thay vua Thuấn và vua Vũ! Được cả thiên hạ mà vẫn cảm thấy việc này không có gì đáng vui hoặc kiêu hãnh cả.". Đây là một tư tưởng rất mới mẻ trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành. Vua không có quyền coi nhân dân là của riêng mà phải lo cho dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương chính trị của Nho giáo vào thời kỳ đó rất táo bạo nhưng rất hợp lý, làm cho nền quân chủ thời đó cũng như các nền chính trị thời nay cũng không thể nào bắt bẻ được.
Nho giáo xem nhân dân là yếu tố quyết định đối với sự tồn vong của chế độ chính trị. Nếu một nhà nước nhận được sự ủng hộ của nhân dân thì vững bền, nếu mất lòng dân thì sụp đổ. Sách Đại Học viết:
"Kinh Thi có câu: Khi nhà Ân chưa để mất lòng dân thì còn xứng đáng để thụ mệnh thiên tử. Nên soi vào tấm gương của nhà Ân để biết rằng, giữ được thiên hạ không phải là dễ. Đây là muốn nói đạo trị dân: nếu được lòng dân là được nước, mất lòng dân là mất nước.".

Vua Hạ Kiệt bị Nho giáo coi là bài học điển hình cho việc mất nước vì tàn bạo
Muốn giữ được lòng dân, giữ vững chế độ thì người lãnh đạo phải có đức thiện vì "có đức thiện mới có được mệnh trời, nếu không có đức thiện thì sẽ mất mệnh trời ngay". Chính vì thế "Làm người cai trị quốc gia không thể không cẩn thận. Nếu để sơ suất một phân ly, không noi theo khuôn phép, tất sẽ bị nhân dân loại bỏ ngay."... lãnh đạo phải có sự chuẩn bị thì mới thành công, không chuẩn bị sẽ thất bại. Nếu chuẩn bị thì nói không vấp váp, làm không khó khăn. Nếu có phép tắc thì hành động không mắc sai lầm, việc hành đạo luôn thông suốt.". Khổng Tử nói: "Quản lý, lãnh đạo một quốc gia có nghìn cỗ xe phải xử lý nghiêm túc, cẩn thận, chu đáo tất cả mọi công việc, phải đặc biệt giữ điều tín với dân, tiết kiệm chi tiêu, yêu mến dân, sử dụng sức dân trong thời gian thích hợp.". Người lãnh đạo cẩn thận trong mọi việc nhưng cũng cần quyết đoán để không đánh mất thời cơ. Quý Tử Văn làm việc gì đều nghĩ đi nghĩ lại rất nhiều lần. Khổng Tử nghe vậy nói "Nghĩ hai lần là đủ rồi".
Nho giáo xem tư cách, đạo đức con người luôn quan trọng hơn tài sản. Ở tầm vóc quốc gia, nhân nghĩa mới thật sự là lợi ích chứ không phải của cải vật chất. Người lãnh đạo phải coi trọng nhân nghĩa, đặt nhân nghĩa lên trên cái lợi trước mắt thì xã hội mới ổn định. Xã hội ổn định thì quốc gia phát triển, quốc khố mới được sung túc. Sách Đại Học viết:
"Người nhân dùng của cải của mình để hoàn thiện phẩm đức. Kẻ bất nhân dùng sinh mệnh của mình để vơ vét thêm của cải. Chưa từng có bậc vua nào yêu điều nhân mà dân chúng lại không yêu điều nghĩa. Chưa từng có người nào hiểu điều nghĩa mà lại làm việc không hết lòng... Điều này nói lên rằng: người trị quốc không nên xem tài sản là vốn quý, mà nên xem nhân nghĩa là vốn quý.".
Người lãnh đạo quốc gia hoặc tổ chức luôn là tấm gương để cấp dưới và dân chúng noi theo. Người lãnh đạo có đạo đức tốt thì cấp dưới, nhân dân mới noi gương tu dưỡng đạo đức. Ngược lại, thượng bất chính, hạ tất loạn - Cấp trên không quang minh chính đại, không tuân thủ nguyên tắc, vi phạm luật pháp, có hành động vô đạo thì cấp dưới và quần chúng cũng bắt chước làm bậy. Sách Đại Học có đoạn viết "Nếu người trên có hiếu với cha mẹ, tôn trọng bậc huynh trưởng, thật lòng thương xót kẻ côi cút cô đơn góa bụa, thì nhân dân cũng tự mà noi theo như vậy. Người quân tử phải nắm vững đạo noi theo khuôn phép này.".... "Vua Nghiêu, vua Thuấn dùng nhân ái để quản lý thiên hạ, nhân dân theo đó mà làm thiện. Vua Kiệt, vua Trụ dùng bạo lực để quản lý thiên hạ, dân chúng cũng theo đó mà làm loạn. Ra lệnh cho dân chúng thực hành nhân ái nhưng mình lại tàn bạo, thì dân nhất định chẳng nghe theo. Người quân tử, trước hết nên yêu cầu mình làm thiện và tránh làm ác, sau đó mới răn dạy người khác.". Người lãnh đạo có đạo đức thì không cần ban thưởng, mọi người đều tín nhiệm, tin theo khiến thiên hạ thái bình, vô sự. Khổng Tử nói: "Cầm quyền lãnh đạo quốc gia cần phải dựa vào đạo đức thì dân chúng đều quy thuận. Tự mình giống như sao Bắc Đẩu vậy, ở cố định một nơi còn các sao khác đều chầu quay quanh nó., không cần ban thưởng mà dân chúng vẫn cảm thấy như được động viên, được cảm hóa, đua nhau làm theo điều thiện; không cần phẫn nộ mà dân chúng vẫn đã kính sợ hơn cả hình phạt bằng búa rìu... người quân tử giữ mình một cách thành thật, thì tự nhiên thiên hạ sẽ thái bình vô sự.". Đó là nghệ thuật lãnh đạo chân chính có thể áp dụng từ tổ chức nhỏ nhất cho đến cấp độ quốc gia. Khổng Tử nói: "Nếu gào thét và nghiêm sắc mặt để giáo hóa dân chúng đó là hạ sách, là điều ngọn vậy." vì "có thể cướp cờ, đoạt tướng giữa ba quân, nhưng không thể cướp đoạt được chí khí của một người dân bình thường.".
Chính vì vậy Nho giáo là một học thuyết chính trị đề cao Nhân trị. Dù hình thức chính trị, tổ chức nhà nước, hệ thống luật pháp có hoàn hảo đến mức nào mà người lãnh đạo thiếu đạo đức, không vì dân thì dân cũng chịu khổ, xã hội hỗn loạn. Dù hình thức chính trị lỗi thời, tổ chức nhà nước không chặt chẽ, luật pháp thiếu sót mà nhà cầm quyền có phẩm hạnh tốt, biết tôn trọng và hết lòng vì dân thì dân vẫn tin tưởng, xã hội ổn định. Sách Đại Học có câu:
"Đức là gốc, tài sản là ngọn. Nếu như bỏ gốc mà lấy ngọn, thì sẽ tranh lợi với dân, cướp bóc dân. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ biết phát ra những mệnh lệnh trái lẽ, chỉ lo tích tụ tài sản châu báu ngọc ngà, thì dân chúng sẽ đối xử lại bằng những điều phản nghịch, khiến cho triều đình ngày một khánh kiệt".".
Việc cai trị bằng nhân nghĩa, bằng cách giáo dục quần chúng để họ tự giác sẽ tốt hơn dùng hình pháp ép buộc người dân tuân thủ luật pháp. Khổng Tử nói: "Dùng mệnh lệnh pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo dân, dùng hình phạt để quản lý dân, làm như vậy có thể giảm được phạm pháp, nhưng người phạm pháp không biết xấu hổ, sỉ nhục. Dùng đạo đức để hướng dẫn, dùng lễ nghĩa để giáo hóa dân thì dân sẽ hiểu được thế nào là nhục nhã khi phạm tội, sẽ cam tâm tình nguyện sửa chữa sai lầm của mình tận gốc từ tư tưởng.". Khi muốn người dân làm điều gì đó, nếu dân đồng ý thì để cho họ làm, nếu dân không đồng ý thì phải giảng giải cho họ hiểu chứ không cưỡng ép họ. Khi quan hệ giữa con người trong xã hội tốt đẹp thì không cần đến sự can thiệp của luật pháp. Khổng Tử nói: "thẩm tra xét xử công án thì năng lực của ta cũng như người khác thôi. Điều mà ta mong muốn tâm đắc là người ta đừng có đi kiện tụng nữa. Phải để cho những kẻ giấu giếm sự thật không dám khua môi múa mép, không dám cậy thế đè người, ức hiếp hãm hại người hiền; khiến cho dân chúng hoàn toàn tâm phục. Thế mới gọi là hiểu được cái gốc của đạo lý.. Đây là quan niệm cai trị mang tính nhân bản của Khổng Tử tuy rằng trên thực tế đến ngày nay lý tưởng của ông nhân loại vẫn chưa thực hiện được bao nhiêu. Để thi hành Nhân trị khiến dân kính trọng, trung thành với nhà nước và tự động viên nhau làm điều tốt thì nhà cầm quyền phải "Có thái độ nghiêm túc, đoan chính đối với mọi việc của dân chúng thì dân chúng kính trọng. Hiếu thuận với cha mẹ, hiền từ với già trẻ, gái trai thì dân chúng sẽ trung thành. Sử dụng cất nhắc người tốt, giáo dục người không có năng lực thì dân chúng sẽ tự động viên, cổ vũ nhau làm điều tốt.".
Người lãnh đạo phải có học vấn mới thực hiện tốt công việc của mình. Khổng Tử phản đối quan niệm của học trò ông là Tử Lộ "Làm quan thì có dân để cai trị, có thần xã tắc để tế lễ, không cần phải chọn kẻ có học làm huyện trưởng, sau làm mới là học.". Người lãnh đạo còn phải thấm nhuần đạo Trung dung mới không đưa ra những chính sách, những quyết định mang tính bất cập hoặc thái quá gây hại cho quốc gia. Khi còn ở nước Trần, Khổng Tử nói "Về đi! Về đi! Những học trò của quê hương ta, chí hướng thì rất cao xa mà việc làm thì rất giản lược, không câu nệ tiểu tiết; về văn chương đều có thể có thành tích khả quan. Nhưng họ chẳng biết xem xét, sửa mình theo đạo Trung dung.".
Thuật lãnh đạo của Nho giáo đề cao những lãnh đạo biết quý trọng tài năng, biết dùng người. Lãnh đạo thiếu tài năng nhưng biết dùng người vẫn thành công. Ngược lại, lãnh đạo dù tài năng nhưng không biết dùng người cũng thất bại. Sách Đại Học viết "Một vị đại thần dù chẳng có tài gì khác, nhưng có tấm lòng quảng đại, bao dung; thấy người khác có tài năng, hiền đức, đại thần đó kính phục từ trong tâm, thì vị đó có thể dung nạp người hiền tài, nên có thể che chở con cháu, xã tắc và nhân dân của ta. Đại thần đó đối với ta rất có ích lắm thay! Còn kẻ làm tôi thấy người khác có tài năng thì đem lòng đố kỵ, ghen ghét; làm điều khó dễ, khiến cho người ấy không được vua biết tới, không thành công trong mọi việc, thì loại người này hết sức nguy hiểm cho con cháu, xã tắc và nhân dân của ta!". Khi dùng người, nên chọn người nghiêm túc, cẩn thận, biết lo lắng khi đối mặt với công việc, biết mưu tính để đạt thành công. Tử Lộ hỏi Khổng Tử nếu ông thống lĩnh quân đội đi đánh giặc, ông sẽ chọn ai theo. Khổng Tử trả lời "Kẻ tay không mà dám đấu với hổ, không dùng thuyền mà dám lội qua sông, chết mà không tiếc thân thì ta chẳng thể chọn người như vậy theo giúp ta. Người theo giúp ta phải là người nghiêm túc, cẩn thận, biết lo lắng khi đối mặt với công việc, biết mưu tính để đạt thành công. ". Một người có trí tuệ, tài năng và kỹ thuật tài nghệ như Chu Công nhưng nếu kêu ngạo và keo kiệt, bủn xỉn thì không thể sử dụng các mặt khác của người ấy được.
Nho giáo xem hiền tài là nguyên khí quốc gia, vì vậy "Phát hiện người có tài đức mà không đề bạt cất nhắc hoặc không trọng dụng, đây là khinh rẻ người có tài đức vậy. Phát hiện kẻ bất lương làm sai trái mà không bãi chức, bãi chức rồi mà không đuổi ra nơi xa xôi hẻo lánh, đây gọi là dung túng cho kẻ bất lương vậy. Ưa thích cái mà mọi người ghét bỏ, ghét bỏ cái mà mọi người ưa thích, thế gọi là làm trái bản tính con người, tai họa nhất định giáng xuống kẻ ấy. Cho nên, làm người quân tử cần nhớ kỹ đạo lý lớn này: phải dựa vào trung tín mới được thiên hạ, còn nếu kiêu ngạo, phóng túng thì nhất định mất thiên hạ.".
Nho giáo chủ trương người lãnh đạo phải biết lắng nghe ý kiến mọi người rồi chọn ra quan điểm đúng đắn nhất để thi hành. Sách Trung Dung có câu: "Vua Thuấn là người có trí tuệ cao siêu nhất: ngài ham hỏi han, lại để tâm suy xét cả những lời thiển cận bình thường. Có ai bày tỏ làm điều gì xấu thì vua bỏ qua cho, ai nêu lên được điều gì tốt thì vua tán dương phát huy triệt để. Trong số những ý kiến ấy, vua Thuấn nắm chắc hai thái cực, chọn lấy cái đúng đắn, hợp lý để lãnh đạo, quản lý dân chúng.". Người lãnh đạo mà tự ý làm càn, chuyên quyền độc đoán hay bảo thủ thì nhất định gặp tai họa. Khổng Tử nói "Kẻ ngu dốt ngoan cố, tự phụ mà hay tự ý làm càn; kẻ ty tiện mà lại hay chuyên quyền độc đoán; kẻ sống trong thời đại ngày nay mà lại muốn quay về theo lễ chế ngày xưa, ba hạng người như vậy nhất định sẽ gặp tai họa.". Khổng Tử không bao giờ mắc phải bốn sai lầm: không dựa vào ý riêng; không phán đoán khẳng định, áp đặt; không cố chấp; không tự cho mình là đúng cả.
Trong quan hệ cấp trên với cấp dưới thì quan điểm của Khổng Tử là "Người bề trên đối với kẻ dưới không khoan dung rộng lượng, chấp hành lễ không nghiêm túc kính cẩn, cử hành tang lễ không đau buồn, thương xót, làm sao ta có thể chịu được ?". Ngược lại người dưới cũng phải biết chọn cành mà đậu, chọn chúa mà thờ, chọn người mà hợp tác. Ai phụng sự, hợp tác với kẻ bạo ngược, tàn ác, vô đạo một ngày nào đó sẽ trở thành nạn nhân của kẻ đó. Khổng Tử nói: "Cư trú ở nơi có nhân đức mới tốt. Chọn nơi không có nhân đức để ở, làm sao có thể nói là người có đức trí được ?".
Điều quan trọng nhất trong việc cai trị thiên hạ là lễ nhạc, luật lệ và văn tự. Nếu nắm vững ba điều này thì ít phạm sai lầm. Sách Trung Dung đưa ra 9 nguyên tắc lớn trong đạo trị quốc là:
Tu dưỡng bản thân thì đạo đức được xác lập.
Tôn trọng hiền tài thì không bị mê hoặc, ngu tối.
Yêu quý thân tộc thì chú bác, anh em không oán hận.
Kính trọng đại thần thì công việc ít phạm sai lầm.
Săn sóc quần thần thì kẻ sĩ tận lực báo đáp.
Quan tâm đến dân thì dân chúng thực hiện tốt mọi điều bề trên đề ra.
Khuyến khích bách nghệ phát triển thì vật dụng, hàng hóa buôn bán đủ đầy, sung túc.
Trọng đãi người nước ngoài đến nước mình làm ăn sinh sống thì bốn phương quy thuận.
Vỗ về chư hầu thì khắp thiên hạ sẽ kính phục.
Nho giáo là một học thuyết chính trị với lý tưởng an bang định quốc nhưng không hề mang tính bảo thủ. Nho giáo khuyên người cầm quyền luôn tự đổi mới cách cai trị của mình cho hợp thời và khuyến khích dân chúng đ