25/05/2018, 13:19

Nguyễn Trọng Trì

(1854-1922), hiệu Tả Am, là nhà thơ và cũng là nhà yêu nước kháng Pháp tiêu biểu trong phong trào Cần Vương ở Bình Định. Gần cuối thế kỷ 19 ở Bình Định, có tú tài Nguyễn Khuê là một ông thầy đồ có đức độ và tiết ...

(1854-1922), hiệu Tả Am, là nhà thơ và cũng là nhà yêu nước kháng Pháp tiêu biểu trong phong trào Cần Vương ở Bình Định.

Gần cuối thế kỷ 19 ở Bình Định, có tú tài Nguyễn Khuê là một ông thầy đồ có đức độ và tiết tháo. Ông có 4 người con trai là Nguyễn Bá Huân, , Nguyễn Thúc Mân, Nguyễn Quý Luân, trong đó có ông Huân và ông Trì là người nổi bật hơn cả.

, quê ở làng Vân Sơn, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.

Tại trường thi Bình Ðịnh khoa Bính Tý, Tự Ðức thứ 29 (1876), ông trúng cử nhân thứ 8. Nhưng trước cảnh nước nhà loạn lạc, nền nho học suy vi, ông không đi thi nữa.

Năm Mậu Dần (1878), triều đình Huế chọn những cử nhân đỗ cao bổ làm quan, trong đó có . Thấy ông không muốn đi, bạn bè xúm lại khuyên, bất đắc dĩ ông phải đi nhậm chức.

Năm Quý Mùi (1883), vua Tự Đức mất, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chuyên quyền phế lập (bốn tháng ba vua). Triều đình Huế ký Hoà Quý Mùi nhận quyền bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ...Làm quan giữa lúc vận nước ngửa nghiêng, giận mình tài hèn sức mọn không gíúp được gì cho cuộc cải biến, ông trốn về làng.

Cuối tháng 5 năm 1885, sau khi trận tập kích không thành, kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi theo Tôn Thất Thuyết chạy ra phía Quảng Trị xuống dụ Cần Vương. Tổng đốc Đào Doãn Địch vốn người Bình Định đang làm quan tại Huế, mang chiếu về quê tụ nghĩa. Sau trận Cần Úc, Đào Doãn Địch lâm bệnh mất, binh quyền được trao cho Mai Xuân Thưởng.

Đến lúc ấy, cả ba anh em Nguyễn Bá Huân, , Nguyễn Quý Luân cùng đến Bình Khê ứng nghĩa. Ba anh em ông và Nguyễn Duy Cung được Mai chủ tướng đặc biệt kính trọng, thường giữ ở bên, để cùng nhau bàn định kế sách và dự các trận đánh lớn ở Cẩm Văn, Thủ Thiện, Phú Phong...

Tháng 5 năm 1887, lực lượng Cần vương ở Bình Định bị liên quân Pháp-Trần Bá Lộc đánh tan rã hết. Mai Xuân Thưởng bị bắt rồi bị chém vào tháng sau. và Nguyễn Phong Mậu chạy đến ẩn náu ở núi Thuận Ninh. Sau, Nguyễn Phong Mậu không chịu nổi gian khổ đã ra hàng. Sợ bị lộ, phải đi trốn ở nơi khác.

Năm 1895, lãnh tụ Phan Đình Phùng qua đời, vua Thành Thái cho bãi lệnh truy tầm dư đảng Cần Vương. Lúc bấy giờ, mới dám trở về làng.

sum họp với gia đình chưa bao lâu thì em mất (Nguyễn Thúc Mân), cha mất. Nhà cửa sa sút, ông để cho anh cả là Nguyễn Bá Huân trông coi từ đường, còn mình thì dẫn vợ con về quê mẹ ở Bình Đức mở trường dạy học.

Năm Đinh Dậu (1897), khí thế của cuộc tụ nghĩa ở Phú Yên do Trần Cao Vân và Võ Trứ lãnh đạo lan tới Bình Định. phấn chấn vui mừng. Nhiều học trò nghe lời khuyên của ông đã trốn vào Phú Yên ứng nghĩa. Biết được, nhà cầm quyền liền cho bắt ông nhốt vào nhà lao ở Bình Định để phòng ngừa.

Bị nhốt gần một năm, thì ông được tha. Sau khi ra tù, ông uống rượu nhiều, và thường đến xem hát bội.

Ông mất ngày mười sáu tháng Giêng năm Nhâm Tuất (1922) thọ 68 tuổi, mộ táng tại thôn Tân Ðức, nay thuộc xã Nhơn Mỹ, huyện An Nhơn. Bị triều Đồng Khánh tước mất học vị cử nhân vì tham gia kháng Pháp, nên trên mộ chí của ông chỉ thấy ghi hai chữ tú tài.

Hiện chỉ mới tìm được 4 tác phẩm bằng chữ Hán của ông, đó là:

Tả Am thi tập

Tây Sơn danh tướng chinh Nam

Tây Sơn lương tướng ngoại truyện

Vân Sơn tập bút

Ngoài ra, còn có tuồng hát Phụng Hoàng Anh và hai tập giai thoại của phường hát bội do ông và Nguyễn Bá Huân cùng soạn.

Như anh ông là Nguyễn Bá Huân, ngay trong thời buổi triều đình nhà Nguyễn còn thâm thù nhà Tây Sơn đến cùng cực, vậy mà hai ông dám viết và truyền bá đề tài này nhằm cổ vũ, nuôi dưỡng ý chí quật cường của nhân dân, thì rõ ràng là hành động quá dũng cảm. Cũng nhờ vậy mà người đời sau biết được ít nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của 15 danh tướng nhà Tây Sơn.

Trích Phu nhân ca đoạn viết về nữ tướng Bùi Thị Xuân lúc đánh thành Đâu Mâu (Trấn Ninh).Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao

Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào

Hoàng hôn thành đốc bi già động

Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều

Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc

Mộc Lan tòng Quân Hoàng Hà khúc

Thùy ngôn cân quắc bất như nhân

Dĩ cổ phương kim tam đỉnh túc.

Tạm dịch:

Khí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát ra,

Gió xuân thổi máu bay thấm đầm tấm chinh bào

Nơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hôn

Có người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dung.

Thật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba quân,

Và nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng Hà

Ai bảo khăn yếm không bằng người?

Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân vạc. Cổ kim bất phạp chân anh hùng

Năng ngự ngoại hồi vi thượng công

Tráng tai Thị Xuân kì nữ tử,

Thống suất tì hưu biến tây đông.

Tổ tông cương thổ bất dung vong,

Nam nhi tử tất tại sa trường

Nam nhi bất hướng sa trường tử,

Cao ca nhất khúc khán Thị Xuân.

Tạm dịch:

Xưa nay chẳng thiếu các bậc thật sự anh hùng

Có thể ngăn giặc ngoài làm nên công lao

Mạnh thay Bùi Thị Xuân, người con gái lạ lùng

Cầm quân vùng vẫy khắp tây đông.

Đất đai tổ tông không thể để mất

Nam nhi hẳn nhiên phải chết ở chốn sa trường

Nếu nam nhi mà không dám hướng về sa trường để chết,

Hãy hát lớn một khúc ca mà xem gương Bùi Thị Xuân.

0