25/05/2018, 13:49

Nguyễn Trọng Lội

(1881 - 1911), còn có tên là Nguyễn Trọng Lợi. Ông là một chí sĩ trong phong trào Duy Tân tại thành phố Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. là con trai trưởng của danh sĩ Nguyễn Thông. Nguyên quán ông Lội ...

(1881 - 1911), còn có tên là Nguyễn Trọng Lợi. Ông là một chí sĩ trong phong trào Duy Tân tại thành phố Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận, Việt Nam.

là con trai trưởng của danh sĩ Nguyễn Thông. Nguyên quán ông Lội ở làng Bình Thạnh, huyện Tân Thạnh, tỉnh Gia Định (nay thuộc xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An).

Thuở nhỏ, ông theo cha ra tị địa tại Phan Thiết rồi lập nghiệp ở đây.

Khoảng năm 1905, trên đường vào Nam, Phan Chu Trinh và Trần Quý Cáp có ghé thăm ông để bàn việc nước. Sau đó, ông nhận lời tham gia phong trào Duy Tân do hai nhà cách mạng này khởi xướng. Kể từ đó nhà ông Lội trở thành nơi tụ tập các nhà yêu nước lúc bấy giờ.

Hưởng ứng cuộc vận động Duy Tân, cùng với Nguyễn Quý Anh (em ông), Nguyễn Hiệt Chi, Hồ Tá Bang, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng lần lượt đứng ra thành lập:

Liên Thành thư xã: truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước, được thành lập năm 1905.

Liên Thành thương quán (tức công ty Liên Thành): làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân, được thành lập năm 1906.

Dục Thanh học hiệu (tức Trường Dục Thanh): dạy cho con em người yêu nước và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ, được thành lập năm 1907.

mất năm 1911, an táng tại Phan Thiết.

Ở quận Tân Bình, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh hiện có một con đường mang tên ông.

Sinh thời, có làm thơ để tỏ chí. Hiện quyển Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858-1920, quyển 2) có giới thiệu lại hai bài thơ chữ Hán của ông:

Tống biệt Phan Tây Hồ (Tiễn biệt Phan Tây Hồ)

Tống biệt Trần Thái Xuyên (Tiễn biệt Trần Thái Xuyên)

Cả hai bài thơ đều đã được Huỳnh Thúc Kháng dịch và đăng trên báo Tiếng Dân số ra ngày 16 tháng 6 năm 1934. Trích giới thiệu một bài:Phiên âm Hán-Việt:

Tống biệt Trần Thái Xuyên

Bất tận phù vân ý,

Thê thê tống khách tình

Bàn sàng phong vũ cấp,

Nhất lộ chướng yên khinh.

Sơn thủy tư kỳ ngộ,

Văn chương tố bất bình.

Hà đương cộng huề thủ,

Du lãm biến hoàn dinh. Dịch nghĩa:

Tiễn biệt Trần Thái Xuyên

Ý như mây trôi, bồng bềnh không dứt

Tình thì phân vân không nỡ tiễn khách.

Giường nằm cũng buồn đau tựa gió giục,

Suốt đường dài ùn ùn mây khói đục ngầu.

Núi sông chứa chan duyên kỳ ngộ,

Văn chương biểu lộ nỗi bất bình.

Đến bao giờ mới lại được bắt tay nhau,

Đi chơi khắp mọi nơi trên thế giới. Huỳnh Thúc Kháng dịch thơ:

Dăng dính chòm mây nổi,

Lý tình mới khó phân.

Giường đau mưa gió giục,

Dặm thẳng khói mù phăng.

Non nước đưa kỳ ngộ,

Văn chương tỏ bất bình.

Hoàn cầu du lịch khắp,

Có lúc bắt tay chăng.

0