25/05/2018, 12:31

Nguyễn Phạm Tuân

(? – 1887) là một người yêu nước, nhà thơ Việt Nam. Quê ông ở huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Ông là một nhân vật trong Phong trào Cần Vương. Khi đi thi, ông đỗ Cử nhân; làm tri phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1883, khi được tin triều ...

(? – 1887) là một người yêu nước, nhà thơ Việt Nam. Quê ông ở huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Ông là một nhân vật trong Phong trào Cần Vương.

Khi đi thi, ông đỗ Cử nhân; làm tri phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1883, khi được tin triều đình Huế đầu hàng thực dân Pháp, đã treo ấn từ quan.

Năm 1885, ông hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông đã được phong chức Tán tương Quân vụ Quân thứ ở tỉnh Quảng Bình. Vào năm 1886, lại được phong chức Thượng tướng; cùng Lê Trực và hai người con của Tôn Thất Thuyết trực tiếp phò vua Hàm Nghi chống Pháp ở Tuyên Hoá. Ông đã từng tổ chức đột nhập thành Quảng Bình để giết quan Bố chánh Nguyễn Đình Dương; một người cộng tác với Pháp.

Đến đầu 1887, ông bị trúng đạn của đội quân Pháp, bị bắt và mất vì vết thương quá nặng.

Tác phẩm còn được biết đến của ông là bài thơ "Đề miếu Nguyễn Biểu" và "Câu đối làm khi bị bắt" với nhiều nghĩa khí. Tên ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội.

Đề Nghĩa Vương miếu

Đông A nhật mộ khởi hoàng phân

Mã sậu hoa nguyên thuộc gián thần

Năng đạm nhân đầu năng đạm Phụ

Thượng tồn ngô thiệt thượng tồn Trần

Nhất thanh mạ tặc hưởng thiên địa

Bát tự đề điều khấp quỷ thần

Thê thảng Bình Hồ thiên cổ miếu

Y y chính khí dẫn thanh phân

Đề miếu Nguyễn Biểu

Đông A ngày tối đám mây vần

Ngựa vượt đồng hoa cậy gián thần

Hễ nuốt đầu người thì nuốt Phụ

Hãy còn tấc lưỡi vẫn còn Trần

Một câu chửi giặc vang trời đất

Tám chủ đề cầu khóc quỷ thần

Miếu cổ Bình Hồ còn phảng phất

Mùi thơm chính khí tỏa lâng lâng

(Khương Hữu Dụng dịch)

Bị đãi thời tác

Sổ thế quân ân thù nhất tử

Thập niên hoạn nghiệp túc tam sinh

Câu đối làm khi bị bắt

Ơn nước mấy đời đền một chết

Nghề quan mười tuổi vẹn ba sinh

0