25/05/2018, 10:16

Nghĩa vụ cấp dưỡng

NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG Khái niệm . Cấp dưỡng có thể được hiểu như là việc một người chuyển giao không có đền bù một số tài sản của mình cho một người khác đang sống trong cảnh thiếu thốn, để người sau này có thể sử dụng, định đoạt các tài sản ấy ...

NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG

Khái niệm.

Cấp dưỡng có thể được hiểu như là việc một người chuyển giao không có đền bù một số tài sản của mình cho một người khác đang sống trong cảnh thiếu thốn, để người sau này có thể sử dụng, định đoạt các tài sản ấy nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của mình.

QUYỀN YÊU CẦU CẤP DƯỠNG

Quyền được bảo đảm việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu. Quyền yêu cầu cấp dưỡng là quyền yêu cầu hỗ trợ vật chất để đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của người có quyền. Suy cho cùng, việc xây dựng chế định quyền yêu cầu cấp dưỡng dựa trên các quyền cơ bản của con người: sinh ra và còn sống, mỗi ngườìi đều có quyền sống và xã hội phải tạo điều kiện thuận lợi cho con người thực hiện quyền sống của mình; một trong những điều kiện vật chất sơ cấp của sự sống là có cái gì đó để ăn, để mặc, để ở,...

Để làm rõ đối tượng của quyền yêu cầu cấp dưỡng, chỉ cần làm rõ khái niệm “nhu cầu thiết yếu”. Theo Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 Điều 16 khoản 2, nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng theo quy định tại các Điều 51, 52 và 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm các chi phí thông thường cần thiết về ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để bảo đảm cuộc sống cho người được cấp dưỡng. Nói chung, đó là các chi phí cần thiết cho việc duy trì cuộc sống vật chất của người được cấp dưỡng và, nếu người này còn có thể phát triển về trí lực (như trong trường hợp người được cấp dưỡng là người chưa thành niên), cả những chi phí cần thiết cho việc duy trì, củng cố các điều kiện của sự phát triển đó. Các nhu cầu vui chơi, giải trí, thư giãn không được tính trong các nhu cầu thiết yếu.

Dù luật không nói rõ, vẫn có thể khẳng định rằng người được cấp dưỡng, trong trường hợp chết, còn được đài thọ chi phí cho việc mai táng: người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể bỏ mặc thi thể của người được cấp dưỡng cho công ty vệ sinh, mà phải tổ chức chu đáo việc chôn cất người này, theo các nghi lễ chấp nhận được.

Nhu cầu thiết yếu của cá nhân chứ không phải nhu cầu thiết yếu cho cá nhân. Nếu chỉ đọc thoáng qua các quy tắc liên quan, người ta dễ có cảm giác rằng người làm luật, khi nói về “nhu cầu thiết yếu”, chỉ liên tưởng đến những cá nhân không bị ràng buộc vào quan hệ nuôi dưỡng với người khác với tư cách là người có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Trong nhiều trường hợp, con đã thành niên hoặc anh, chị, em có gia đình riêng của mình và không thể phân biệt được đâu là nhu cầu thiết yếu cho cá nhân, đâu là nhu cầu thiết yếu cho gia đình của đương sự ( Thậm chí có trường hợp cha (mẹ) chung sống với anh, chị, em đã thành niên của mình mà tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản. Khi đó, cha (mẹ) cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng anh, chị, em đó.). Một khi con (đồng thời là chủ gia đình) bị đói, thì chắc chắn tất cả các thành viên gia đình mà con có trách nhiệm cưu mang cũng đói. Không thể nói rằng nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ nhằm cứu đói cho riêng con đã thành niên hoặc anh, chị, em; còn gia đình riêng của họ ra sao mặc kệ. Nói rõ hơn, cái gọi là nhu cầu thiết yếu mà việc đáp ứng được bảo đảm bằng việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, là tất cả những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống vật chất của cá nhân người yêu cầu cấp dưỡng cũng như cho tất cả những người mà người này, theo luật, có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng.

Phương thức và điều kiện xác lập

Phương thức

Hai phương thức. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 1, nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Điều 50 khoản 2 quy định thêm rằng trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ đó thì phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của luật này.

Từ các quy định đó, có thể ghi nhận trong khung cảnh của luật hiện hành, hai phương thức xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng.

- Phương thức tương ứng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 1. Điều luật thiết lập một nguyên tắc mà trên cơ sở của nguyên tắc đó, quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng, theo quy định của pháp luật, hình thành giữa các cặp chủ thể được điều luật liệt kê, trong những trường hợp đặc thù. Ta tạm gọi đó là những quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng do luật quy định hay quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chế tài.

- Phương thức tương ứng với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 50 khoản 2. được ghi nhận như một biện pháp chế tài đối với người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Ta tạm gọi quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng này là quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chế tài.

Điều kiện

a. Tình trạng kinh tế của người yêu cầu cấp dưỡng

Không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Nếu tất cả những người thân thuộc đều có cuộc sống vật chất đầy đủ, thì không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ai. Thậm chí, một người sống túng thiếu nhưng có khả năng tự giải quyết các vấn đề đặt ra cho cuộc sống vật chất của mình bằng sức lao động của mình, cũng không có quyền yêu cầu cấp dưỡng. Ta sẽ thấy, trừ trường hợp cấp dưỡng cho vợ chồng sau khi ly hôn, rằng người được cấp dưỡng, nếu không phải là người chưa thành niên, chỉ xác lập được quyền yêu cầu cấp dưỡng trong trường hợp “không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Hiểu thế nào về cụm từ đó trong khung cảnh của các quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng ?

Không có khả năng lao động. Hẳn thế nào là không có khả năng lao động tùy thuộc vào sự đánh giá của thẩm phán. Người thất nghiệp chưa chắc là không có khả năng lao động; người tật nguyền cũng có thể có khả năng lao động;... Có lẽ khả năng lao động nói trong các điều luật liên quan chủ yếu là khả năng về sức vóc, cơ bắp và các kỹ năng cho phép đương sự thực hiện một công việc (thường xuyên hoặc không thường xuyên), hoặc với tư cách người lao động cá thể, riêng lẻ, hoặc với tư cách người lao động làm thuê, nhằm tạo thu nhập nuôi sống mình và gia đình mình. Không thể nói là không có khả năng lao động, một người vai u, thịt bắp, khoẻ mạnh, có thể được sử dụng tốt vào các công việc cần lao động chân tay, nhưng lại chỉ mơ tưởng đến những công việc thuộc các lĩnh vực rất chuyên môn mà mình không đủ năng lực để chen chân vào và do đó, không được ai quan tâm tuyển dụng, cuối cùng rơi vào cảnh sống bần cùng. Trái lại, có thể coi là không có khả năng lao động một người chấp nhận làm bất kỳ việc gì trong khuôn khổ pháp luật, để có thu nhập, nhưng không ai chịu thuê.

Không có tài sản để tự nuôi mình. Không nhất thiết người yêu cầu cấp dưỡng hoàn toàn không có tài sản. Người yêu cầu cấp dưỡng có thể có tài sản gốc, nhưng tài sản không sinh lợi (Ví dụ, có một căn nhà tranh, một ít đồ vật gia dụng,... không thể cho ai thuê. )hoặc có sinh lợi và đã được khai thác theo khả năng của chủ sở hữu, nhưng không đủ để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình mình. Người có yêu cầu cấp dưỡng cũng có thể có thu nhập thường xuyên hoặc không thường xuyên do lao động, thậm chí có hưởng trợ cấp (mất sức, thương tật,...) và đã huy động tất cả các nguồn thu nhập của mình mà vẫn không thoả mãn được các yêu cầu chi tiêu tối thiểu cho cuộc sống hàng ngày của mình và của gia đình mình.

b. Tình trạng của người được yêu cầu cấp dưỡng

Có khả năng và có điều kiện cấp dưỡng. Nếu tất cả những người có liên quan đều ở trong tình trạng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình, thì mỗi người đều phải tự xoay sở. Người được yêu cầu cấp dưỡng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một khi có khả năng vật chất và có điều kiện hỗ trợ cho người yêu cầu.

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã dẫn Điều 16 khoản 1 quy định rằng người có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định tại các điều 51, 52 và 53 của Luật hôn nhân và gia đình là người có thu nhập thường xuyên hoặc tuy không có thu nhập thường xuyên nhưng còn tài sản sau khi đã trừ đi chi phí thông thườìng cần thiết cho cuộc sống của người đó (Tài sản, thu nhập ở đây phải là tài sản, thu nhập ròng, nghĩa là sau khi đã trừ chi phí đầu vào, trừ thuế, nợ. Hơn nữa, tài sản đó phải là hình thức biểu hiện vật chất của thu nhập, hoa lợi, lợi tức chứ không phải là các tài sản gốc.) Câu chữ của điều luật cho phép nghĩ rằng chỉ có thể coi là có khả năng cấp dưỡng người có thu nhập (dù là không thường xuyên) và đã có thể tự bảo đảm việc đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của mình. Luật chỉ nhắc đến “cuộc sống của người đó” (của người có nghĩa vụ cấp dưỡng), cũng như khi nói về người có quyền được cấp dưỡng. Trong đa số trường hợp, đương sự còn có vợ (chồng) thậm chí có con phải nuôi dưỡng của riêng mình. Một cách hợp lý, “cuộc sống của người đó” phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất: không chỉ là cuộc sống của cá nhân người đó, mà còn là cuộc sống của gia đình hộ của người đó, nghĩa là của những người mà người đó có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng. Không thể buộc một người hy sinh gia đình của mình để cứu lấy gia đình của người khác.

Các mối quan hệ cấp dưỡng cụ thể

Xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng không mang tính chế tài

Việc xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng không mang tính chế tài được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 các Điều từ 56 đến 60. Ta có các quyền cấp dưỡng trong quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em, giữa ông bà nội (ngoại) và cháu và giữa vợ chồng sau khi ly hôn.

a. Quan hệ giữa cha mẹ và con

Cha mẹ cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 56, khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Ta đã nói rằng quan hệ cha mẹ-con không lệ thuộc vào tính chất của quan hệ giữa cha và mẹ. Bởi vậy, sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con vẫn luôn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con. Tuy nhiên, trong điều kiện cha mẹ ly hôn và con phải sống chung với một trong hai người, người không trực tiếp nuôi dưỡng con có thể thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng dưới hình thức cấp dưỡng và người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện việc cấp dưỡng, thay cho việc nuôi dưỡng theo những thể thức bình thường được áp dụng lúc cha mẹ còn duy trì quan hệ hôn nhân. Cần nhấn mạnh rằng con được cấp dưỡng phải là con chung của vợ và chồng; luật không phân biệt con chung ấy là con ruột hay con nuôi.

Cũng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 17 khoản 2, trong trường hợp việc kết hôn giữa cha mẹ bị huỷ, thì quyền lợi của con được giải quyết như trong trường hợp cha mẹ ly hôn. Bởi vậy, khi việc kết hôn bị huỷ, người không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Con cấp dưỡng cho cha mẹ. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 57, con đã thành niên không sống chung với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Chắc chắn, con đối với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng, một khi con đã thành niên và có khả năng lao động trong điều kiện cha mẹ không sống chung, không có khả năng lao động và không có tài sản. Vấn đề đặt ra: liệu con đã thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình hoặc bị hạn chế năng lực hành vi, nhưng có tài sản sinh lợi, có phải cấp dưỡng cho cha mẹ không sống chung với mình ? Luật hiện hành không có câu trả lời chính thức cho câu hỏi này. Dẫu sao, việc cấp dưỡng cho cha mẹ mà không mang tính chất của một biện pháp chế tài là hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng trong trường hợp đặc thù mà cha mẹ sống riêng với con và không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình. Luật, khi xây dựng quan hệ nuôi dưỡng giữa một bên là con có nghĩa vụ nuôi dưỡng và bên kia là cha mẹ có quyền được nuôi dưỡng, thậm chí không phân biệt con chưa thành niên hay đã thành niên. Bởi vậy, có thể tin rằng ngay nếu như người đã thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình hoặc bị hạn chế năng lực hành vi mà có tài sản sinh lợi, thì nghĩa vụ cấp dưỡng (không mang tính chế tài) vẫn có thể ràng buộc người này: việc thực hiện nghĩa vụ đó được bảo đảm bằng vai trò của người đại diện.

b. Quan hệ giữa anh, chị, em

Cấp dưỡng dự bị. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 58, trong trường hợp anh chị em không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con, thì anh chị đã thành niên không chung sống với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; em đã thành niên không chung sống với anh chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Ta nhận thấy ngay điều kiện thứ nhất để phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em: không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con. Trong chừng mực nào đó, có thể coi anh chị em như là người có nghĩa vụ dự bị, sau cha mẹ, đối với những người mà cha mẹ có trách nhiệm cấp dưỡng.

c. Quan hệ giữa ông bà nội (ngoại) và cháu

.Ông bà nội (ngoại) cấp dưỡng cho cháu. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 59 khoản 1, ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58 của Luật này. Khi nói về cháu chưa thành niên, người làm luật không nói thêm “không có tài sản để tự nuôi mình” như trong trường hợp quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị em. Song, Luật lại chỉ ràng buộc ông bà nội (ngoại) vào nghĩa vụ cấp dưỡng đối với cháu trong trường hợp cháu không có người cấp dưỡng theo quy định tại Điều 58, nghĩa là trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện cấp dưỡng và cũng không còn anh, chị, em hoặc còn nhưng anh, chị, em cũng không có điều kiện cấp dưỡng. Do đóï, có thể thừa nhận rằng ông bà nội (ngoại) chỉ là người cấp dưỡng dự bị của anh, chị, em, thậm chí là người dự bị đích thực, tức là chỉ phải cấp dưỡng một khi người được cấp dưỡng rơi đúng vào trường hợp có thể được anh, chị, em cấp dưỡng, nếu có anh, chị, em và những người này có điều kiện để cấp dưỡng.

Cháu cấp dưỡng cho ông bà nội (ngoại). Cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội (ngoại) có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội (ngoại) trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người cấp dưỡng theo quy định của của Luật này (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 59 khoản 2). Vậy có nghĩa rằng ông bà có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với cháu một khi không sống chung với cháu và bản thân ông bà không còn cha mẹ, con, anh, chị, em hoặc những người này không có điều kiện cấp dưỡng.

d. Quan hệ giữa vợ và chồng

Cấp dưỡng sau khi ly hôn. Trong luật hiện hành, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng chỉ được đặt ra sau khi ly hôn. Quan hệ vợ chồng được chấm dứt bằng ly hôn phải là quan hệ vợ chồng hợp pháp. Có trường hợp sau khi ly hôn, việc kết hôn trước đó lại bị huỷ bằng một bản án hoặc quyết định của Toà án theo yêu cầu của vợ, chồng đã ly hôn hoặc của một người thứ ba; khi đó nghĩa vụ cấp dưỡng phải bị huỷ bỏ.

Hơn nữa, ly hôn chỉ là một trong các điều kiện cần. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 60 quy định rằng khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng, thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình. Cần nhấn mạnh ba chữ đầu của điều luật - “khi ly hôn”. Trong nhiều trường hợp mỗi bên đều có cuộc sống vật chất bình thường khi ly hôn; nhưng sau đó một thời gian, một bên, do nguyên nhân gì đó khách quan hoặc chủ quan, rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Hẳn trong suy nghĩ của người làm luật, bên khó khăn trong trường hợp này không thể yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Nói rõ hơn, hoàn cảnh sống mà luật dựa vào đó để xác định liệu có hay không có nghĩa vụ cấp dưỡng của một bên đối với bên kia trong một vụ ly hôn là hoàn cảnh sống được ghi nhận tại thời điểm ly hôn. Khi đó, cấp dưỡng được coi như một biện pháp hỗ trợ cho người ly hôn tránh được những xáo trộn trong cuộc sống vật chất là hệ quả trực tiếp của sự kiện ly hôn.

Nhưng, cần lưu ý rằng khác với người có quyền yêu cầu cấp dưỡng trong các trường hợp khác, người được cấp dưỡng với tư cách là vợ (chồng) ly hôn không nhất thiết phải ở trong tình trạng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chỉ cần người này rơi vào tình trạng sống sa sút đáng kể so với trước khi ly hôn và sự sa sút đó có một trong những nguyên nhân trực tiếp là việc ly hôn, thì quyền yêu cầu cấp dưỡng được xác lập.

Xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng mang tính chế tài

Khái niệm “trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng”. Việc xác lập quyền yêu cầu cấp dưỡng mang tính chế tài được ghi nhận cho tất cả các trường hợp giữa người có quyền và người có nghĩa vụ có quan hệ nuôi dưỡng và người có trách nhiệm nuôi dưỡng cố tình lẫn tránh trách nhiệm đó. Luật sử dụng từ “trốn tránh” để chỉ hành vi của người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà do hành vi đó, người này có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Thế nào là trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng ? Đúng là đứng trước yêu cầu chính đáng và bức bách của người được nuôi dưỡng (Người được nuôi dưỡng đang bị đói và cần có gì đó để ăn; đang bệnh và cần ít tiền để chi phí thuốc men;... ) người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà tỏ ra thờ ơ, không có một động thái gì cho thấy thiện chí đáp ứng, rõ ràng là người trốn tránh; người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà từ chối tiếp người được nuôi dưỡng để nghe người sau này trình bày những yêu cầu của mình liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, là người có hành vi trốn tránh; người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà hứa suông, không đáp ứng cụ thể các yêu cầu của người được nuôi dưỡng, cũng là người trốn tránh.

a. Quan hệ cha mẹ và con

Cha mẹ cấp dưỡng cho con. Cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 1). Bởi vậy, vấn đề cấp dưỡng của cha mẹ đối với con chỉ được đặt ra, một khi cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng các con trong các trường hợp này. Con không được nuôi dưỡng có thể đang chung sống hoặc không chung sống với cha mẹ.

Con cấp dưỡng cho cha mẹ. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 2, con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật. Điều luật cũng không phân biệt con sống chung hay sống riêng với cha mẹ. Cần lưu ý rằng, dù luật không quy định rõ, chỉ có con có khả năng nuôi dưỡng mới có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Nhưng liệu tất cả các con có nghĩa vụ nuôi dưỡng đều buộc phải cấp dưỡng khi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng?

Chắc chắn, con đã thành niên và có khả năng lao động là những người đầu tiên có nghĩa vụ nuôi dưỡng được bảo đảm thực hiện bằng nghĩa vụ cấp dưỡng.

Con đã thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình, nhưng có tài sản sinh lợi, như đã nói, cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng; song khó có thể nói được rằng nếu con không làm tròn nghĩa vụ nuôi dưỡng (thông qua vai trò của người giám hộ) trong trường hợp này, thì có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấïp dưỡng. Con chưa thành niên đủ 15 tuổi mà có thu nhập cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với cha mẹ; tuy nhiên, có vẻ như người làm luật không sẵn sàng buộc con chưa thành niên đủ 15 tuổi mà có thu nhập vào nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp con trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với cha mẹ. Nói chung, nghĩa vụ nuôi dưỡng của con chưa thành niên đủ 15 tuổi và con thành niên mất năng lực hành vi hoặc không nhận thức được hành vi của mình nhưng có tài sản, đối với cha mẹ, mang đậm tính chất của một nghĩa vụ tự nhiên hơn là của một nghĩa vụ pháp lý.

Tóm lại, chỉ có con đã thành niên và có khả năng lao động là những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà có thể bị buộc phải cấp dưỡng.

b. Quan hệ giữa anh chị em

Không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng cấp dưỡng, nuôi dưỡng. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 48, anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.

Với quy định này thì thoạt trông, chỉ cần không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con, thì nghĩa vụ nuôi dưỡng được xác lập một cách đương nhiên giữa tất cả các anh, chị, em, bất kể tuổi tác và người trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng sẽ bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do áp dụng Điều 50 khoản 2. Thực ra, về phương diện đạo đức, anh, chị, em luôn có nghĩa vụ đùm bọc nuôi dưỡng nhau, dù còn hay không còn cha mẹ. Nhưng trong khung cảnh của Điều 48, nghĩa vụ đùm bọc, nuôi dưỡng giữa anh, chị, em được xác lập như một nghĩa vụ pháp lý trong trường hợp không thể xác lập nghĩa vụ nuôi dưỡng (pháp lý) của cha mẹ đối với con. Thế mà, ta đã biết, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng (pháp lý) đối với con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bởi vậy, quan hệ nuôi dưỡng giữa anh, chị, em, với tư cách là một quan hệ pháp lý, chỉ hình thành, trong điều kiện cha mẹ không còn hoặc không có khả năng nuôi dưỡng người khác, một khi có ít nhất một trong số anh, chị, em là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Hơn nữa, quan hệ nghĩa vụ (pháp lý) chỉ được xác lập trọn vẹn một khi có ít nhất một người có điều kiện nuôi dưỡng người khác, nghĩa là trước hết phải có khả năng làm ra của cải ( Xem xét vấn đề trong khung cảnh của pháp luật lao động, có thể tin rằng người có trách nhiệm nuôi dưỡng trong trường hợp này phải có năng lực xác lập quan hệ lao động, tức là phải đủ 15 tuổi, có khả năng lao động,... (BLLĐ Điều 6). Tuy nhiên, không hẳn là phù hợp với ý chí của người làm luật giải pháp theo đó, người chưa thành niên đủ 15 tuổi trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với anh, chị, em thì có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khi nói về việc cấp dưỡng không mang tính chế tài giữa anh, chị, em, người làm luật chỉ nhắc đến anh, chị, em đã thành niên như là những người có năng lực pháp luật cấp dưỡng. Hẳn cũng như trong quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng có tính chế tài của con đối với cha mẹ, người có nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chế tài đối với anh, chị, em phải là người đã thành niên, có khả năng lao động và có tài sản. ). Điều đáng chú ý: khi nói về quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính chế tài giữa anh, chị, em, luật lại không có quy định phân biệt giữa em chưa thành niên có tài sản và em chưa thành niên không có tài sản, như trong trường hợp xác lập quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chế tài.

c. Quan hệ ông bà nội (ngoại) và cháu

Ông bà nội (ngoại) cấp dưỡng cho cháu. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 47 khoản 1, ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trườìng hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này. Vậy nghĩa là ông bà nội (ngoại) chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với cháu trong trường hợp cháu không còn cha mẹ, anh, chị, em hoặc còn nhưng những người này không có khả năng, điều kiện nuôi dưỡng. Một khi những điều kiện do luật quy định đã có đủ mà ông bà nội (ngoại) không nuôi dưỡng cháu, thì có thể bị buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Cháu cấp dưỡng cho ông bà nội (ngoại). Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội (ngoại) (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 47 khoản 2). Luật sử dụng từ “phụng dưỡng” thay vì “nuôi dưỡng”. Có lẽ, đó chỉ vì khi nói về quan hệ nuôi dưỡng giữa một bên - người có nghĩa vụ - là con cháu và bên kia - người có quyền yêu cầu - là cha mẹ, ông bà -, dân gian quen sử dụng từ phụng dưỡng hơn là từ nuôi dưỡng. Dẫu sao, về nội hàm pháp lý, hẳn từ phụng dưỡng trong điều luật cũng giống từ nuôi dưỡng. Vậy, cháu có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại; và nếu cháu trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng thì buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Cần lưu ý rằng khi nói về bổn phận phụng dưỡng của cháu đối với ông bà nội (ngoại), luật không phân biệt các trường hợp tùy theo ông bà còn hay không còn con. Tuy nhiên, bằng cùng một cách phân tích được sử dụng đối với quan hệ đùm bọc, nuôi dưỡng giữa anh, chị, em, ta kết luận rằng một khi ông bà còn có con đủ khả năng lao động, thì bổn phận phụng dưỡng của cháu đối với ông bà chỉ là một bổn phận thuần tuý đạo đức; cháu chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng (pháp lý) đối với ông bà trong trường hợp ông bà không còn con có điều kiện nuôi dưỡng ông bà.

Lên tiếng yêu cầu

Thực hiện không đương nhiên. Việc một người lâm vào cảnh túng thiếu do không có khả năng lao động, không có tài sản và người khác có đủ điều kiện để cấp dưỡng không đương nhiên làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng: cho đến khi nào có sự thoả thuận về việc xác lập nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc có bản án hoặc quyết định của Toà án về việc buộc một người có đủ điều kiện cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thì người có đủ điều kiện chỉ bị ràng buộc vào một nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ này không bao giờ được cụ thể hoá bằng con số. Riêng trong trường hợp ly hôn, nếu không có sự thoả thuận giữa vợ chồng hoặc không có bản án hoặc quyết định của Toà án về việc cấp dưỡng, thì giữa vợ chồng sau khi ly hôn thậm chí không có quan hệ nghĩa vụ nuôi dưỡng.

Nói rõ hơn, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được đặt thành vấn đề một khi có người nào đó chính thức lên tiếng: hoặc người có nhu cầu lên tiếng yêu cầu cấp dưỡng; hoặc người có điều kiện lên tiếng đề nghị cấp dưỡng, thuờng là để thay thế nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người nhận đề nghị.

Các trường hợp đặc biệt

Trường hợp nhiều người có cùng một nghĩa vụ cấp dưỡng

Vấn đề. Nếu quan hệ cấp dưỡng không mang tính chế tài hình thành giữa những người thân thuộc, thì, như đã biết, luật viết có quy định về trật tự yêu cầu tùy theo loại quan hệ: con phải yêu cầu cha mẹ cấp dưỡng và chỉ được yêu cầu anh, chị, em của mình cấp dưỡng trong trường hợp cha mẹ không còn hoặc không có khả năng cấp dưỡng; chỉ được yêu cầu ông bà nội (ngoại) cấp dưỡng trong trường hợp không còn cha mẹ, anh, chị, em hoặc tất cả những người này đều không có điều kiện cấp dưỡng. Nếu quan hệ cấp dưỡng mang tính chế tài, thì người nào trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

Nói riêng về quan hệ nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chế tài. Vấn đề đặt ra: liệu, trong điều kiện tôn trọng trật tự yêu cầu được thiết lập trong luật viết, một người có quyền cùng một lúc yêu cầu nhiều người cấp dưỡng cho mình? Các tình huống mà trong đó vấn đề vừa nêu bật ra khá đa dạng: mẹ không có khả năng lao động ly hôn với cha có quyền yêu cầu cha cấp dưỡng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 60 và có quyền yêu cầu con đã thành niên không chung sống với mình cấp dưỡng theo Điều 57; em chưa thành niên có quyền yêu cầu anh trai đã thành niên cấp dưỡng theo Điều 58 và cũng có quyền yêu cầu chị gái đã thành niên cấp dưỡng theo điều luật đó; cháu có quyền yêu cầu ông bà nội cấp dưỡng theo Điều 59 và cũng có quyền yêu cầu ông bà ngoại cấp dưỡng theo điều luật đó.

Giải pháp. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 52 có nhắc đến trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người. Điều đó cho phép kết luận rằng trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định, một người có quyền cùng một lúc yêu cầu nhiều người cấp dưỡng cho mình. Nhưng các tiêu chí để xác định hoàn cảnh, điều kiện đó không được thiết lập một cách cụ thể trong luật viết và vấn đề nhiều người cùng cấp dưỡng cho một người được luật giải quyết tùy theo trường hợp.

- Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 36 khoản 1, trong trường hợp gia đình có nhiều con, thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, về phần mình, nói rằng con đã thành niên không sống chung có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, như đã biết. Đã nói rằng cấp dưỡng là một hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, ta có được quy tắc: trong trường hợp cha mẹ có nhiều con không sống chung, thì các con không sống chung phải cùng nhau cấp dưỡng cho cha mẹ.

- Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có vẻ muốn ràng buộc tất cả các anh, chị, em có đủ điều kiện vào trách nhiệm chung trong việc cấp dưỡng cho một trong các anh, chị, em có nhu cầu cấp dưỡng. Cũng như vậy, trong trường hợp cháu có nhu cầu được cấp dưỡng: ông bà nội và ông bà ngoại đều có trách nhiệm ngang nhau đối với việc đáp ứng yêu cầu cấp dưỡng của cháu (Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000).

Trái lại, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không có giải pháp trong trường hợp vợ (chồng) sau khi ly hôn sống khó khăn, túng thiếu, vừa có chồng (vợ) lại vừa có con đã thành niên, có khả năng lao động và không chung sống với mình. Theo Điều 60 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì vợ (chồng) trong trường hợp này có quyền yêu cầu chồng (vợ) cấp dưỡng; và theo Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì vợ (chồng), với tư cách là mẹ (cha), cũng có quyền yêu cầu con đã thành niên cấp dưỡng. Cả hai người được yêu cầu phải cùng có trách nhiệm cấp dưỡng hay người này chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp người kia không có điều kiện cấp dưỡng ? Nếu vế thứ hai trong câu hỏi vừa nêu được chọn làm câu trả lời, thì ai là người thứ nhất có nghĩa vụ cấp dưỡng? Có vẻ như trong khung cảnh của luật viết, khi được yêu cầu, thì chồng (vợ) và con trong giả thiết đều có trách nhiệm đáp ứng ngay, tức là có nghĩa vụ cấp dưỡng cho người có yêu cầu, chứ không được quyền đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Điều 52 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo Điều luật này, trong trường hợp nhiều người cùng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người hoặc nhiều người, thì những người này thoả thuận với nhau về phương thức và mức đóng góp phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của mỗi người và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết. Thực ra, có nhiều khả năng người có quyền yêu cầu cấp dưỡng chỉ yêu cầu một người hoặc một vài người trong số những người có điều kiện cấp dưỡng; và khi yêu cầu, thì người yêu cầu luôn mong muốn rằng người được yêu cầu sẽ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ cấp dưỡng đối với mình (Giải pháp này chắc chắn phù hợp với ý chí của người làm luật: người được cấp dưỡng, khi yêu cầu cấp dưỡng, thực hiện một quyền tài sản được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện; bởi vậy, người này không cần phải gõ cửa từng nhà của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và xin mỗi người một ít như một người đi khẩn cầu lòng hảo tâm. ). Bởi vậy, Điều 52 chỉ nói về cách thực hiện nghĩa vụ trong quan hệ nội bộ giữa những người có nghĩa vụ chứ không phải trong quan hệ giữa người có nghĩa vụ và người có quyền yêu cầu.

Trường hợp nhiều người có quyền yêu cầu

Trật tự đáp ứng. Một người có thể nhận được yêu cầu cấp dưỡng của nhiều người (của con, của vợ cũ, của cha, mẹ, của nhiều anh, chị, em). Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 51, trong trường hợp một người cấp dưỡng cho nhiều người, thì người cấp dưỡng và những ngườìi được cấp dưỡng thoả thuận với nhau về phương thức và mức cấp dưỡng cho phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của những người được cấp dưỡng; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Trước tiên, có thể nói ngay rằng khi một người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhiều người, thì người này có nhiều nghĩa vụ cấp dưỡng khác nhau, chứ không phải chỉ có một nghĩa vụ cấp dưỡng được chia thành nhiều phần. Bởi vậy, trên nguyên tắc, mỗi người đều có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ giúp mình đáp ứng nhu cầu của mình, một cách độc lập. Tuy nhiên, người có nghĩa vụ chỉ có thể cấp dưỡng trong phạm vi khả năng của mình; nếu khả năng đó thừa sức thoả mãn tất cả các yêu cầu, thì tốt; trong trường hợp ngược lại, những người có yêu cầu cấp dưỡng chỉ có thể nhận được những gì mà người có nghĩa vụ có thể cho.

Thông thường, những người có yêu cầu cấp dưỡng không đặt yêu cầu cùng một lúc. Có người đến trước và có thể đã nhận được một con số nào đó. Nếu sau đó lại có một người khác đến, thì, trong điều kiện khả năng còn lại của người có nghĩa vụ không đủ để đáp ứng, người có nghĩa vụ và người đến sau có thể thoả thuận tay đôi về mức cấp dưỡng theo khả năng còn lại của người có nghĩa vụ; cả hai cũng có thể cùng với người đến trước ngồi lại thoả thuận về việc điều chỉnh mức cấp dưỡng cho người đến trước. Nếu các bên không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết. Điều chắc chắn: nếu một người yêu cầu cấp dưỡng đã nhận được sự trợ cấp cần thiết, thì, trong điều kiện có người yêu cầu đến sau, không thể buộc người đã nhận trợ cấp hoàn trả một phần trợ cấp để chia sẻ cho người yêu cầu đến sau.

Xác định thể thức thực hiện quyền yêu cầu

Định kỳ hoặc một lần

Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 54).

a. Cấp dưỡng định kỳ

Tháng, quý, năm. Cấp theo định kỳ hay một lần và nếu cấp theo định kỳ, thì định kỳ nào sẽ được lựa chọn, hẳn là các vấn đề được giải quyết, trước hết, theo sự thoả thuận giữa các bên. Toà án chỉ can thiệp một khi các bên không có được sự thoả thuận cần thiết. Trước khi xác định phương thức cấp dưỡng, Toà án thường cân nhắc dựa trên các dữ kiện về định kỳ thu nhập của người có nghĩa vụ cũng như về đặc điểm của các nhu cầu của người được cấp dưỡng ( Ví dụ. người đang theo một chương trình học dài hạn có nhu cầu đóng học phí vào tháng 10 hàng năm, có nhu cầu trả tiền thuê nhà trọ vào đầu mỗi quý, có nhu cầu ăn uống, đi lại mỗi ngày. Người bệnh có nhu cầu tái khám định kỳ hai tháng một lần;...). Riêng trong trường hợp cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn, thì theo Toà án nhân dân tối cao, nếu giữa cha và mẹ không thoả thuận được, Toà án sẽ lựa chọn phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng (Xem Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, đã dẫn, 11, c. Nghị quyết chỉ giải quyết vấn đề cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn. Cũng trong cùng một vụ ly hôn, có thể còn có vấn đề cấp dưỡng cho vợ (chồng). ).

b. Cấp dưỡng một lần

Đặt vấn đề. Việc cấp dưỡng một lần được quy định chi tiết tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP Điều 18 khoản 2, 3 và 4. Các trường hợp cấp dưỡng một lần, theo Nghị định, bao gồm:

a. Có thoả thuận giữa người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng;

b. Có yêu cầu của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và được Toà án chấp nhận;

c. Có yêu cầu của người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và được Toà án chấp nhận trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thường xuyên có các hành vi phá tán tài sản hoặc cố tình trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng mà hiện có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng một lần;

d. Theo yêu cầu của người trực tiếp nuôi con khi vợ chồng ly hôn mà có thể trích từ phần tài sản được chia của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

Cấp dưỡng một lần, số tài sản được chuyển giao chắc chắn có giá trị lớn (thường là một số tiền lớn) đối với người được cấp dưỡng. Ta có thể tự hỏi: 1. Số tiền được ấn định bằng cách nào ?; 2. Hình dung thế nào về mục đích, ý nghĩa của việc cấp dưỡng một lần ?

Ấn định số tiền cấp dưỡng một lần. Tất nhiên việc xác định mức cấp dưỡng, dù là một lần hay theo định kỳ, đều phải dựa vào các tiêu chí chung để đánh giá nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng, được thiết lập tại Nghị định số 70/2001/NĐ-CP đã dẫn, Điều 16 khoản 2, nghĩa là mức chi tiêu trung bình tại địa phương cho việc ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh,... Sau khi đã xác định được mức chi tiêu trong một kỳ (mức cấp dưỡng hàng tháng, quý, năm), ta nhân kết quả thu được cho số kỳ cần cấp dưỡng để có được số tiền cấp dưỡng một lần.

Ngay lập tức, một vấn đề bật ra: làm thế nào xác định số kỳ (đúng ra là số năm) cần cấp dưỡng ?

- Nếu người được cấp dưỡng chưa thành niên, thì hẳn số năm cần cấp dưỡng là hiệu số giữa tuổi thành niên và tuổi ghi nhận lúc bắt đầu cấp dưỡng;

- Còn nếu người được cấp dưỡng đã thành niên, thì số năm cấp dưỡng được xác định như thế nào ? Suy nghĩ một cách vội vàng, ta có thể sẽ nói ngay rằng con số ấy phải được xác định tùy theo kết quả dự kiến về thời điểm kết thúc tình trạng cần được cấp dưỡng: năm hết tàn tật, phục hồi khả năng lao động, có tài sản để tự nuôi mình; năm kết hôn đối với người được cấp dưỡng là vợ (chồng) sau khi ly hôn; thậm chí năm chết (!?). Thế nhưng, việc xác định số tiền cấp dưỡng một lần cho người đã thành niên, dựa vào những tham số trên đây, khó có thể được coi là một công việc nghiêm túc.

Ngay cả đối với việc cấp dưỡng cho người chưa thành niên, nếu được thực hiện một lần, cũng có thể trở nên không hợp lý trong nhiều trường hợp: giá cả tăng vọt, nhu cầu thiết yếu thay đổi theo thời gian,... Nói chung, cấp dưỡng một lần chỉ là một sai sót trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Bằng tiền, hiện vật hoặc bằng cách nuôi dưỡng

Tiền hoặc hiện vật. Cấp dưỡng bằng tiền là hình thức cấp dưỡng thông dụng nhất. Trong trường hợp người có nghĩa vụ không có nhiều tiền mặt, thì việc cấp dưỡng có thể được thực hiện bằng hiện vật. Trên thực tế, hiện vật dùng để cấp dưỡng thường là sản phẩm làm ra bằng sức lao động của người có nghĩa vụ (ví dụ, lúa gạo, súc vật nuôi, trứng,...). Việc cấp dưỡng bằng tiền hay hiện vật được xác định theo thoả thuận giữa các bên, nếu không thoả thuận được, thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết.

Tiền hoặc hiện vật cấp dưỡng được giao tại nơi cư trú của người được cấp dưỡng, trừ trường hợp có thoả thuận khác giữa các bên, áp dụng luật chung về địa điểm thực hiện nghĩa vụ.

Nuôi dưỡng. Trong khung cảnh của luật viết, việc trực tiếp nuôi dưỡng là một trong những biện pháp có tác dụng chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Thế nhưng, ta đã nói rằng nghĩa vụ cấp dưỡng thực chất chỉ là một hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng; bởi vậy, việc trực tiếp nuôi dưỡng đúng ra là biện pháp có tác dụng thay đổi hình thức thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng hơn là chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.

Ấn định mức cấp dưỡng

Xác định theo thoả thuận. Mức cấp dưỡng do ngườìi có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó (Luật không ghi nhận khả năng chịu nghĩa vụ cấp dưỡng của người được giám hộ, do đó, không nhắc đến vai trò của người giám hộ của người này. Tuy nhiên, người giám hộ của người phải cấp dưỡng có quyền can thiệp theo luật chung về giám hộ. ) thoả thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 53 khoản 1). Các quy định vừa nêu chỉ mang tính hướng dẫn: các bên có thể tự do thoả thuận về việc người được cấp dưỡng được bảo đảm nhiều hơn hoặc ít hơn so với nhu cầu thiết yếu của người này.

Xác định bằng con đường tư pháp. Trong trường hợp giữa các bên không có sự thoả thuận cần thiết về mức cấp dưỡng, thì một trong các bên hoặc cả hai bên có thể yêu cầu Toà án giải quyết. Tất nhiên, Toà án cũng sẽ căn cứ vào nhu cầu của người có quyền được cấp dưỡng và khả năng đáp ứng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng để xác định mức cấp dưỡng khả thi.

Trong điều kiện luật không có quy định riêng, các tranh chấp về mức cấp dưỡng được giải quyết theo luật chung về tố tụng dân sự, nghĩa là có thể được kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, có thể được xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Song, liệu có nên quy định rằng bản án sơ thẩm phải được thi hành ngay dù có kháng cáo? Sự chờ đợi có thể khiến cho tình trạng sống khó khăn của người yêu cầu cấp dưỡng trở nên nghiêm trọng hơn.

Đổi chế độ cấp dưỡng

Thay đổi thể thức. Việc cấp dưỡng có thể được thay đổi từ cấp dưỡng hàng tháng thành hàng quý, hàng năm và ngược lại. Luật nói rằng các bên có thể thoả thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 54); nếu không thoả thuận được, thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết (cùng điều luật). Việc thoả thuận giữa các đương sự xuất phát từ sự tự nguyện giữa họ; còn quyết định của Toà án thay đổi định kỳ cấp dưỡng hẳn phải dựa vào một hay nhiều lý do chính đáng, ví dụ, hoàn cảnh, điều kiện sống của mỗi bên, hoàn cảnh điều kiện thực hiện việc chi trả tiền hoặc chuyển giao hiện vật cấp dưỡng,...

Thay đổi mức cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng được thoả thuận hoặc được ấn định bằng con đường tư pháp không nhất thiết được cố định trong suốt thời gian cấp dưỡng: ”Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi” (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 53 khoản 2). Lý do chính đáng rất đa dạng: tình trạng thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng có thay đổi; có thêm người thân thuộc cần được cấp dưỡng; người có nghĩa vụ cấp dưỡng lập gia đình, có con chưa thành niên phải nuôi dưỡng;... Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì yêu cầu Toà án giải quyết. Luật không nói rõ liệu có cần một thời gian tối thiểu để mức cấp dưỡng có thể thay đổi, nhất là bằng con đường tư pháp. Thực tiễn, về phần mình, thừa nhận rằng Toà án có thể bác đơn yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng trong trường hợp đơn được nộp chỉ sau một thời gian quá ngắn kể từ ngày mức đó được ấn định, quá ngắn để nói rằng điều kiện sống của người này hay người kia đã có những thay đổi quan trọng đủ để đặt cơ sở cho việc xét lại tính hợp lý của mức cấp dưỡng .( Thay đổi mức cấp dưỡng trong điều kiện có sự thay đổi hoàn cảnh sống do nguyên nhân bất khả kháng, là sự thay đổi được thừa nhận theo luật chung, không cần được xác nhận lại bằng một quy tắc riêng. )

Tạm ngừng cấp dưỡng. Việc tạm ngừng cấp dưỡng có thể được chấp nhận trong trường hợp chính người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 54). Có trường hợp việc lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế diễn ra thành từng bước đi xuống và người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã từng bước tiến hành cắt giảm mức cấp dưỡng tương ứng với mức độ sa sút thu nhập của mình, rồi đến một lúc nào đó mới chính thức ngừng cấp dưỡng do không còn khả năng. Cũng có trường hợp người cấp dưỡng ngừng cấp dưỡng một cách đột ngột do sự sụp đổ trong một sớm một chiều cơ nghiệp kinh tế của mình.

CHẾ TÀI

Trong luật hiện hành, nghĩa vụ cấp dưỡng được bảo đảm thực hiện theo luật chung, nghĩa là không được bảo đảm một cách đặc biệt. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người có quyền có thể yêu cầu cưỡng chế thực hiện bằng cách tiến hành kê biên và bán các tài sản của người có nghĩa vụ.

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 Điều 20. Buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng:

1.Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, thì theo yêu cầu của các cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình, Toà án ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng thoả thuận; nếu không thoả thuận được, thì thời điểm đó được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án ( Nhắc lại rằng các bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.).

2. Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Toà án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình, thì người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện nghĩa vụ đó. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được tính từ ngày ghi trong bản án, quyết định của Toà án.

3. Theo quyết định của Toà án, cơ quan, tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động, các thu nhập thường xuyên khác cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng có trách nhiệm thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó theo đúng mức và phương thức cấp dưỡng do người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó và người có nghĩa vụ cấp dưỡng thoả thuận hoặc theo mức và phương thức cấp dưỡng do Toà án quyết định.

Người vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng cũng có thể bị phạt hành chính. Nếu vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính mà vẫn tiếp tục vi phạm, thì người có nghĩa vụ có thể bị chế tài về hình sự (BLHS 1999 Điều 152).

Người có nghĩa vụ cấp dưỡng mà đồng thời cũng được xếp vào một hàng thừa kế theo pháp luật được gọi của người được cấp dưỡng có thể bị mất quyền hưởng di sản của người sau này, nếu việc vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng để lại hậu quả nghiêm trọng (BLDS 2005 Điều 643 khoản 1 điểm b).

CHẤM DỨT NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG

Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 61, nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây.

1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động;

2. Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình;

3. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;

4. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;

5. Người cấp dưỡng hoặc người được

0