MS245 – Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du Bài làm Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời một sự nghiệp văn học rất đồ sộ. Ông dành rất nhiều tác phẩm viết về số phận hồng nhang bạc ...
Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Bài làm
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Ông để lại cho đời một sự nghiệp văn học rất đồ sộ. Ông dành rất nhiều tác phẩm viết về số phận hồng nhang bạc mệnh với tấm lòng thương cảm sâu sắc như: Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh Ký,… Đặc biệt, ông đã thể hiện sự đồng cảm đó qua kiệt tác Truyện Kiều mà trong đó nổi bật hơn cả là đoạn trích “Nỗi thương mình”.
Sau khi Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh. Biết mình bị lừa, nàng đã chống trả rất quyết liệt và rút dao định tự sát, nhưng không chết. Mụ Tú Bà thấy Thúy Kiều không chịu tiếp khách nên đã bày mưu cùng với Sở Khanh (tên tay sai của Tú Bà) để lừa Thúy Kiều trốn. Nhẹ dạ cả tin nên thúy Kiều lại bị lừa và bị mụ Tú Bà đánh đập rất dã man. Thúy Kiều phải ra tiếp khách làng chơi từ đó.
Đoạn trích “Nỗi thương mình” dài 20 câu thơ, từ câu 1229 đến câu 1248 đã nói về những tháng ngày Thúy Kiều sống trong chốn lầu xanh. Đoạn trích đã thể hiện một cách xúc động về nỗi đau đớn, tủi nhục, thương thân xót phận và ý thức cao về nhân phẩm của Kiều khi bị ép, bị đẩy vào vũng bùn hôi tanh.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
“Biết bao” là không đếm được, tính được, không nhớ hết. Kiều phải tiếp khách làng chơi triền miên: “đầy tháng”, “suốt đêm”, “sớm đưa”, “tối tìm”, phải trải qua “bướm lả ong lơi”, phải “Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”, phải sống trong cảnh “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm”. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tìm ấy nổi bật lên một hình ảnh nàng Kiều cô đơn, buồn tủi. Nguyễn Du đã sử dụng tài tình các ẩn dụ: “bướm lả ong lơi”, “cuộc say”, “trận cười”, các thi liệu, điển tích: “lá gió”, “cành chim”, “Tống Ngọc”, “Trường Khanh” để diễn tả cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ ở chốn lầu xanh. Tác giả đã lấy cái nhã, dùng lối nói ẩn dụ để tả cái thô, cái bẩn dưới đáy xã hội. Các hình thức đối xứng trong câu như: “bướm lả/ ong lơi”, “lá gió/ cành chim” được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân xót phận của Kiều và làm nổi bật cảnh ăn chơi, thác loạn ở chốn lầu xanh, tạo nhịp điệu hài hòa cho câu thơ, đồng thời còn gây cảm giác đau đớn, xót xa thực sự cho người đọc.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp, xô bồ ở chốn lầu xanh vừa ẩn chứa tiếng thở dài não nuột của người con gái tài sắc vẹn toàn buộc phải làm kỹ nữ. Tác giả thương xót nàng Kiều rơi vào chốn vũng bùn tanh hôi, nơi nhân phẩm bị chà đạp, hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh ấy thì nàng Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.
Mười hai câu thơ tiếp theo nói về tâm trạng, nỗi lòng trong những tháng ngày làm kỹ nữ ở chốn làu xanh.
Nguyễn Du đã thể hiện thật thần tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đố diện với chính lòng mình:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Sống trong cảnh “Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm” thì chỉ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính lòng mình. Lúc khách làng chơi ra về hết, đêm rất khuya chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Ở câu thơ thứ nhất, nhịp thơ 3/3 như gợi lên từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa của người con gái đang lênh đênh lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thơ thứ hai, nhịp thơ lại được chuyển thành 2/2/2/2. Cách ngắt nhịp đột ngột của hai chữ “giật mình” diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ “mình” được tác giả lặp lại ba lần, nhấn mạnh sự cô độc, đau đớn cho thân phận của mình. Trạng thái thảng thốt cho thấy Kiều đã ý thức được thực tại bẽ bàng của mình, ý thức được thân phận, nhân cách của mình.
Nhịp điệu, âm hưởng, phép điệp từ của hai câu thơ trên được kết hợp hài hòa, tự nhiên, diễn tả thật chính xác tâm trạng đau đớn, sầu muội của Kiều. Trong cảnh tĩnh lặng của đêm khuya, nỗi đau ấy, nỗi sầu ấy như hiện rõ thành hình, thành khối. Đọc hai câu thơ trên chắc hẳn ai cũng sẽ phải ngậm ngùi rơi lệ.
Khi Thúy Kiều nghĩ về quá khứ êm đềm, tươi đẹp, những ngày còn ở với mẹ cha “phong gấm rủ là”, Kiều đau đớn cho thân phận của mình phải đem nhan sắc làm món hàng cho khách làng chơi. Các điệp ngữ, các so sánh, ẩn dụ và nghệ thuật tương phản đã nói lên nỗi xót xa, đau đớn của Thúy Kiều sau những ngày phải tiếp khách làng chơi ấy.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường”
Quá khứ đối lập với hiện tại một cách khốc liệt. Trước kia, Thúy Kiều được nâng niu, quý trọng bao nhiêu thì giờ đây nàng lại bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Ở hai câu thơ này đã có: “khi sao”, “giờ sao”, tiếp theo sau nó lại viết: “mặt sao”, “thân sao”, lời cảm thán cất lên tê buốt, như những nhát dao cứ cứa sâu vào tim gan vô cùng đau đớn:
“Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Các biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ (gió, sương, bướm, ong) và thủ pháp phân hợp từ ngữ: “dày gió dạn sương”, bướm chán ong chường” đã được tác giả sử dụng để cực tả nỗi tủi nhục của một người con gái tài sắc vẹn toàn bị đẩy vào vũng bùn hôi tanh nhơ nhớp.
Lúc nào Kiều cũng tự ý thức về nhân phẩm của mình. Các từ ngữ “mặc người”, “nào biết” đã thể hiện rõ ý thức ấy:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Đối với khách làng chơi, những người phong lưu như Thúc Sinh thì chốn lầu xanh là cảnh thần tiên, là cảnh mộng truy hoan:
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Không chỉ có đủ “phong”, “hoa”, “tuyết”, “nguyệt” tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: “xuân: hoa; hè: gió; thu: trăng; đông: tuyết” mà còn có đủ các thú vui như cầm, kỳ, thi, họa:
“Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”
Trái lại, trái tim Kiều vẫn dửng dưng, thờ ơ vì nàng đau khổ tê tái. Mọi cảnh vật đều nhuốm vẻ sầu thương vì lòng nàng đang đau đớn, tủi nhục:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Kiều sống cô đơn vì nàng tự ý thức nhân phẩm của mình. Giữa chốn lầu xanh tìm đâu ra “tri âm” nên nàng lúc nào cũng sống trong tâm trạng “vui gượng”. Đó là tâm trạng của một gia nhân “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”:
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”
Cấu trúc tứ bình (phong, hoa, tuyết, nguyệt; cầm, kỳ, thi, họa) với nghệ thuật tương phản và sử dụng câu hỏi tu từ, Nguyễn Du đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ, tủi nhục, cô đơn của người con gái tài sắc vẹn toàn đang vùng vẫy chống trọi lại cảnh đời trụy lạc. Ý thức cao về nhân cách, nhân phẩm của Kiều đã được nhà thơ thiên tài Nguyễn Du cảm thông và trân trọng.
Đoạn trích “Nỗi thương mình” của Nguyễn Du cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã thể hiện rất thành công nỗi đau khổ, buồn tủi đáng thương của Kiều giữa vũng bùn tanh hôi, nhơ nhớp để đề cao nhân phẩm, phẩm giá của Kiều. Đọc đoạn trích này, khiến người đọc càng xót xa, căm giận về cái xã hội phong kiến tàn ác xưa. Đồng thời, càng cảm phục, yêu thương người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bạc mệnh – Thúy Kiều.
Chu Thị Lệ
Lớp 10A2 – Trường THPT Vân Nham, Hữu Lũng, Lạng Sơn