24/05/2018, 21:35

Một số phương hướng biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp

Tổ chức huy động và sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu tổ chức đảm bảo, đầy đủ, kịp thời vốn thì quá trình sản xuất kinh doanh mới diễn ra liên tục và thuận lợi. Ngược lại nếu sử dụng vốn có ...

Tổ chức huy động và sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Nếu tổ chức đảm bảo, đầy đủ, kịp thời vốn thì quá trình sản xuất kinh doanh mới diễn ra liên tục và thuận lợi. Ngược lại nếu sử dụng vốn có hiệu quả thì việc tổ chức, cung ứng vốn cho sản xuất kinh doanh mới dễ dàng. Do đó việc nâng cao hiệu quả tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh trở thành một vấn đề quan trọng hàng đầu của moị doanh nghiệp.

Việc tổ chức và sử dụng vốn kinh doanh trong doanh nghiệp chịu ảnh huởng bởi những nhân tố khác nhau. Để phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực tác động vào quá trình tổ chức và sử dụng vốn của doanh nghiệp, nhất thiết người quản lý doanh nghiệp phải nắm bắt được những nhân tố tác động đó.

Những nhân tố chủ yếu ảnh huởng đến việc tổ chức vốn kinh doanh.

Vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn: nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp. do đó việc tổ chức vốn cũng chịu ảnh hưởng chủ yếu của hai nguồn vốn này.

- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp bao gồm: tiền khấu hao tài sản cố định, lợi nhuận để lại để tái đầu tư, các khoản dự trữ dự phòng. Ngoài ra, còn có các khoản thu được từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định. Nguồn vốn bên trong với lợi thế rất lớn là doanh nghiệp được quyền chủ động sử dụng một cách linh hoạt mà không phải chịu chi phí sử dụng vốn. Vì thế, nếu doanh nghiệp tổ chức khai thác triệt để nguồn vốn bên trong sẽ vừa tạo một lượng vốn cung ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh lại vừa giảm được khoản chi phí sử dụng vốn do phải đi vay từ bên ngoài, đồng thời nâng cao được hiệu quả đồng vốn hiện có.

- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp bao gồm: vay ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ khác. Trong nền kinh tế thị trường, ngoài vốn chủ sở hữu thì số vốn doanh nghiệp huy động từ bên ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh huy động của doanh nghiệp. Việc tổ chức huy động vốn từ nguồn vốn bên ngoài không những đáp ứng kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh với số lượng lớn mà còn tạo cho doanh nghiệp một cơ cấu vốn linh hoạt hơn.

Tuy nhiên việc lựa chọn cân nhắc hình thức thu hút vốn tích cực lại là nhân tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả công tác tổ chức vốn. Nếu doanh nghiệp xác định chính xác nhu cầu, lựa chọn phương án đầu thư vốn có hiệu quả, tìm được nguồn tài trợ thích ứng sẽ mang đến thành công cho doanh nghiệp. Ngược lại, nợ vay sẽ là gánh nặng rủi ro đối với doanh nghiệp.

Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh

Vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh vận động liên tục, chuyển từ hình thái này sang hình thái khác. Tại một thời điểm vốn tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó, vốn sản xuất kinh doanh chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Xét về mặt khách quan, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố.

Các nhân tố khách quan:

  • Môi trường kinh doanh:

Doanh nghiệp là một cơ thể sống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ qua lại với môi trường xung quanh.

- Môi trường kinh tế:

Một doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường luôn gắn liền hoạt động sản xuất kinh doanh của mình với sự vận động của nền kinh tế. Khi nền kinh tế có biến động thì hoạt động của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng. Do vậy mọi nhân tố có tác động đến việc tổ chức và huy động vốn từ bên ngoài đều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Những tác động đó có thể xảy ra khi nền kinh tế có lạm phát, sức ép của môi trường cạnh tranh gay gắt, những rủi ro mang tính hệ thống mà doanh nghiệp không tránh khỏi. Các nhân tố này ở một mức độ nào đó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên hoạt động sản xuất kinh doanh, đến công tác quản lý và hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp.

- Môi trường Chính trị -Văn hoá- Xã hội:

Chế độ chính trị quyết định nhiều đến cơ chế quản lý kinh tế, các yếu tố văn hoá, xã hội như phong tục tập quán, thói quen, sở thích.... là những đặc trưng của đối tượng phục vụ của doanh nghiệp do đó gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

- Môi trường pháp lý:

Là hệ thống các chủ trương chính sách, hệ thống pháp luật tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Nhà nước, bằng luật pháp và hệ thống các chính sách kinh tế, thực hiện chức năng quản lý và điều tiết các nguồn lực trong nền kinh tế. Qua đó các chính sách khuyến khích đầu tư và những ưu đãi về thuế, về vốn đã thực sự đem lại cho các doanh nghiệp một môi trường kinh doanh ổn định và sôi động. Vì vậy, đứng trước quyết định về đầu tư tài chính doanh nghiệp luôn phải tuân thủ các chính sách kinh tế của nhà nước.

- Môi trường kỹ thuật công nghệ:

Ngày nay tiến bộ khoa học công nghệ phát triển không ngừng, việc áp dụng những thành tựu đạt được vào hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng. Làn sóng chuyển giao công nghệ đã trở nên toàn cầu hoá, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao trình độ của mình.

- Môi trường tự nhiên:

Là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như thời tiết, khí hậu... Khoa học ngày càng phát triển thì con người càng nhận thức được rằng họ là bộ phận không thể tách rời của tự nhiên. Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên phù hợp sẽ làm tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công việc.

Mặt khác, điều kiện tự nhiên phù hợp còn tác động đến các hoạt động kinh tế và cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Tính thời vụ, thiên tai, lũ lụt... gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

* Thị trường:

ở đây nhân tố thị trường được xem xét trên các khía cạnh như giá cả, cung cầu và cạnh tranh.

- Cạnh tranh: Cơ chế thị trường là cơ chế của cạnh tranh gay gắt. Bất cứ doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển cũng đều phải đứng vững và tạo ưu thế trong cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường.

- Giá cả: Đây là nhân tố doanh nghiệp quyết định nhưng lại phụ thuộc vào mức giá chung trên thị trường. Doanh nghiệp định giá thì phải căn cứ vào mức giá thành và mức giá chung. Sự biến động của giá trên thị trường có thể có tác động rất lớn đến tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Cung cầu: doanh nghiệp phải xác định mức cầu trên thị trường cũng như mức cung để có thể lựa chọn phương án tối ưu tránh tình trạng sử dụng vốn không hiệu quả.

Các nhân tố chủ quan.

* Ngành nghề kinh doanh.

Đây là điểm xuất phát của doanh nghiệp, có định hướng phát triển trong suốt quá trình tồn tại. Một ngành nghề kinh doanh đã được lựa chọn buộc người quản lý phải giải quyết những vấn đề như:

- Cơ cấu tài sản, mức độ hiện đại của tài sản.

- Cơ cấu vốn, quy mô vốn, khả năng tài chính của doanh nghiệp

- Nguồn tài trợ cũng như lĩnh vực đầu tư.

* Trình độ quản lý tổ chức sản xuất.

- Trình độ tổ chức quản lý của lãnh đạo: vai trò của người lãnh đạo trong sản xuất kinh doanh là rất quan trọng, thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu và hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh nhằm giảm những chi phí không cần thiết, đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển.

- Trình độ tay nghề của người lao động: thể hiện ở khả năng tự tìm tòi sáng tạo trong công việc, tăng năng suất lao động... Đây là đối tượng trực tiếp sử dụng vốn của doanh nghiệp quyết định phần lớn hiệu quả trong sử dụng vốn.

- Trình độ tổ chức hoạt động kinh doanh: đây cũng là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp. Chỉ trên cơ sở tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả mới đem lại những kết quả đáng khích lệ.

- Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn: Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để quản lý các nguồn tài chính là hệ thống kế toán tài chính. Nếu công tác kế toán được thực hiện không tốt sẽ dẫn đến mất mát, chiếm dụng, sử dụng không đúng mục đích... gây lãng phí tài sản đồng thời có thể gây ra các tệ nạn tham ô, hối lộ, tiêu cực... là các căn bệnh xã hội thường gặp trong cơ chế hiện nay.

* Tính khả thi của dự án đầu tư:

Việc lựa chọn dự án đầu tư có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn. Nếu doanh nghiệp có dự án đầu tư khả thi, sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ có chất lượng tốt, giá thành thấp thì doanh nghiệp sẽ sớm thu hồi được vốn và có lãi. Ngược lại khi không tiêu thụ được sản phẩm, doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng vốn, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

* Cơ cấu vốn đầu tư:

Việc đầu tư vào những tài sản không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng vốn bị ứ đọng, gây ra tình trạng lãng phí vốn, giảm vòng quay của vốn, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp rất thấp.

Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, ngoài ra còn có những nguyên nhân khác tuỳ thuộc vào điều kiện kinh doanh cụ thể của từng doanh nghiệp. Nắm bắt đượcc ác nhân tố này sẽ giúp cho doanh nghiệp kịp thời đưa ra giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của chúng tới hoạt động của doanh nghiệp, từ đó nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Nhằm cung ứng đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, các doanh nghiệp cần thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:

- Một là: Lựa chọn đúng phương án sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn chỉ đạt được khi doanh nghiệp có khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, quy mô và tính chất kinh doanh không phải do chủ quan doanh nghiệp quyết định mà khả năng nhận biết, dự đoán thời cơ là một trong các yếu tố quyết định sự thành bại trong sản xuầt kinh doanh.

Vì vậy vấn đề đầu tiên có tính chất quyết định hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn là phải lựa chọn đúng phương án sản xuất kinh doanh. Các phương án này phải dựa trên cơ sở tiếp cận thị trường, xuất phát từ nhu cầu thị trường. Có như vậy sản phẩm làm ra mới có thể tiêu thụ được, doanh nghiệp mới nâng cao được hiệu quả kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn.

- Hai là: Xác định chính xác nhu cầu vốn tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh . Việc xác định nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề không kém phần quan trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp tránh được tình trạng thiếu vốn gây gián đoạn, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh hoặc phải đi vay ngoài với lãi suất vao, đồng thời cũng tránh được tình trạng ứ đọng vốn, không phát huy được hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.

- Ba là: Huy động và đầu tư vốn đúng đắn. Lựa chọn các hình thức thu hút vốn tích cực, triệt để khai thác nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp, đáp ứng kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh và giảm được chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Cần tránh tình trạng vốn tồn tại dưới hình thái tài sản không cần sử dụng, vật tư hàng hoá kém phẩm chất trong khi doanh nghiệp phải đi vay với lãi suất cao.

Trước khi quyết định đầu tư, doanh nghiệp cần phải cân nhắc kỹ từ nguồn tài trợ vốn đầu tư, thị trường cung cấp nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm để đảm bảo chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. Đầu tư đúng đắn vào thiết bị máy móc tiên tiến, hiện đại, kết cấu tài sản đầu tư hợp lý cũng hạn chế được ảnh hưởng của hao mòn vô hình mà vẫn đạt chỉ tiêu về năng suất và chất lượng.

- Bốn là: Tổ chức tốt từ công tác sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp cần phân phối nhịp nhàng giữa các bộ phận sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Tăng cường công tác quảng cáo, marketing nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng vòng quay của vốn. Để làm tốt các mục đích ấy, doanh nghiệp phải tăng cường quản lý các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh, cũng như quản lý tốt vốn cố định và vốn lưu động

Năm là: Quản lý chặt chẽ các khoản vốn. Làm tốt công tác thanh toán công nợ, chủ động phòng ngừa rủi ro, hạn chế tình trạng bị chiếm dụng vốn. Bởi vì nếu không quản lý tốt khi phát sinh nhu cầu về vốn thì doanh nghiệp phải đi vay ngoài kế hoạch, làm tăng chi phí sử dụng vốn mà lẽ ra không có. Đồng thời vốn bị chiếm dụng cũng là một rủi ro khi trở thành nợ khó đòi, gây thất thoát, khó khăn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy doanh nghiệp nên mua bảo hiểm, lập quỹ dự phòng tài chính để có nguồn bù đắp khi vốn bị thiếu hụt.

- Sáu là: Tăng cường phát huy vai trò của tài chính trong việc sử dụng vốn bằng cách thường xuyên kiểm tra tài chính và lập kế hoạch đối với việc sử dụng vốn trong tất cả các khâu từ dự trữ, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm và mua sắm tài sản cố định. Theo doĩ và kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh trên cả sổ sách lẫn thực tế để đưa ra kế hoạch sử dụng vốn hợp lý và có hiệu quả.

0