Một số khái niệm
Lao động là hoạt động có mục đích của con người. Lao động là hành động diễn ra giữa con người và giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người vận dụng sức tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự ...
Lao động là hoạt động có mục đích của con người. Lao động là hành động diễn ra giữa con người và giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người vận dụng sức tiềm tàng trong thân thể mình, sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất trong tự nhiên, biến đổi những vật chất đó, làm cho chúng trở nên có ích cho đời sống của mình. Lao động chính là việc sử dụng sức lao động. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất hoạt động trong quá trình lao động. Nó tác động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động để tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản xuất là một hệ thống gồm ba thành phần hợp thành (người lao động, quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hoá) thì sức lao động là một trong các nguồn lực khởi đầu của sản xuất.
Dân số trong độ tuổi lao động của một nước thường được chia làm hai bộ phận là: dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt kinh tế.
Dân số hoạt động kinh tế còn gọi là dân số nguồn lao động hay lực lượng lao động là những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc, hoặc không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc. Như vậy, lực lượng lao động trong độ tuổi lao bao gồm số người có việc làm và số người thất nghiệp là những người không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc.
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm tất cả những người khác trong độ tuổi lao động không thuộc nhóm có việc làm hoặc thất nghiệp. Bộ phận này bao gồm: những người không có khả năng làm việc do tàn tật ốm đau, mất sức kéo dài; những người chỉ làm việc nội trợ của chính gia đình mình và được trả công; học sinh, sinh viên trong độ tuổi lao động; những nguời không hoạt động kinh tế vì những lí do khác.
Có ý kiến cho rằng, việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Như vậy theo quan điểm này khi và chỉ khi có sự phù hợp về số lượng của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất thì ở đó có việc làm. Với cách hiểu việc làm như khái niệm trên thì chưa thật toàn diện. Bởi vì còn một yếu tố thư ba rất quan trọng đó là điều kiện lao động. Nếu điêù kiện lao động không đảm bảo thì qúa trình lao động cũng không thể diễn ra được .
Vì vậy, trong điều 13 Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ : “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều đuợc thừa nhận là việc làm.” Các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: làm các công việc được trả công dưới dạng tiền hặc hiện vật ; công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó.
Người có việc làm là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra : đang có việc làm để nhận tiền công , tiền lương; đang làm việc nhưng không được hưởng tiền trong các công việc kinh doanh của hộ gia đình mình hoặc đã có công việc trước đó song tuần lễ trước điều tra tạm thời nghỉ việc sau đó sẽ tiếp tục làm việc.
Thất nghiệp là hiện tượng có sự tách rời , không phù hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất mà sức lao động lại gắn với từng con người cụ thể vì thế nên người thất nghiệp là người không có phương tiện để sản xuất và đang muốn tìm việc làm.
Trong cuộc tổng điều tra thực trạng lao động và việc làm năm 1996, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã quy định như sau : “Người thất nghiệp là người từ độ tuổi từ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế trong thời kì điều tra không có vệc làm nhưng có nhu cầu tìm việc.”
Kế hoạch việc làm là một bộ phận trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội, nó xác định tổng quy mô, cơ cấu và chất lượng của bộ phận dân số hoạt động kinh tế cần có trong thời kì kế hoạch; xác định một số chỉ tiêu xã hội của lao động như : nhu cầu làm việ mới, nhiệm vụ giải quyết việc làm đồng thời đưa ra các chính sách cần thiết nhằm khai thác, huy động và sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn lao động.
Trong hệ thống kế hoạch hoá quốc gia, kế hoạch hoá việc làm có ý nghĩa đặc biệt, nó bao hàm cả ý nghĩa của kế hoạch biện pháp và kế hoạch mục tiêu. Là kế hoạch biện pháp, kế hoạch việc làm nhằm vào mục tiêu tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng kinh tế, tạo điều kiện về việc làm để thực hiện mục tiêu này. Là kế hoạch mục tiêu vì kế hoạch việc làm bao hàm một số các chỉ tiêu nằm trong hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội như: giải quyết việc làm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn lao động.