24/05/2018, 21:59

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo

Tăng trưởng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Và thông qua các phương thức phân phối, kết quả của sự tăng trưởng sẽ đến được với người dân. Phân phối thu nhập theo chức năng Phân phối thu nhập theo chức năng có ...

Tăng trưởng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Và thông qua các phương thức phân phối, kết quả của sự tăng trưởng sẽ đến được với người dân.

Phân phối thu nhập theo chức năng

Phân phối thu nhập theo chức năng có liên quan đến sự phân chia thu nhập theo các yếu tố sản xuất khác nhau như lao động (theo trình độ), đất đai (tài sản), máy móc thiết bị (vốn)…

Những khoản thu nhập từ các yếu tố sản xuất được hình thành từ kết quả của hoạt động kinh tế. Yếu tố tác động đến các khoản thu nhập theo chức năng là giá các yếu tố sản xuất ( tiền lương, địa tô, lãi xuất..). Nhưng trong thực tế giá của các yếu tố sản xuất có thể cao hơn (thấp hơn) do cung, cầu quyết định, chính điều đó đó làm thu nhập rơi vào tay những người sở hữu nhiều các yếu tố sản xuất tạo ra khoảng cách giữa những người có ít và có nhiều.

Như vậy phấn phối theo chức năng được xác định chủ yếu dựa vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất và vai trũ của từng yếu tố trong sản xuất. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mức độ phúc lợi (thu nhập) khác nhau giữa các nhóm dân cư.

Phân phối lại thu nhập

Nếu như tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống nhân dân thì đòi hỏi phải có tác động nhằm giảm bớt khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư do phân phối theo chức năng tạo ra. Phân phối lại thu nhập chính là hình thức để khắc phục.

Phương thức phân phối lại thu nhập thường được thực hiện qua đánh thuế thu nhập, các chương trình trợ cấp và chi tiêu công của Chính phủ nhằm giảm bớt mức thu nhập của người giàu và nâng cao thu nhập của người nghèo. Nhưng đây không phải hình thức cơ bản nâng cao thu nhập của đai bộ phận dân cư.

Đường Lozen

Córad Lozen là nhà thống kê người Mỹ năm 1905 đó xây dựng biểu đồ biểu thị mối quan hệ giữ các nhóm dân số và tỷ lệ thu nhập tương ứng của họ.

Đường Lozen

Trục hoành biểu thị phần trăm cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự thu nhập tăng dần.Trục tung là tỷ lệ trong tổng thu nhập mà mỗi phần trăm trong dân số nhận được. Đường kẻ chéo (đường 450) trong hình cho thấy ở bất kể điểm nào trên đường này đều phản ánh tỷ lệ phần trăm thu nhập nhận được đúng bằng phần trăm của người có thu nhập. Đường chéo là đại diện của sự phân phối thu nhập "hoàn toàn công bằng".

Đường Lozen cho thấy mối quan hệ định lượng thực sự giữa tỷ lệ phần trăm của dân số có thu nhập và tỷ lệ phần trăm trong tổng thu nhập nhận được trong một khoảng thời gian nhất định chẳng hạn là một năm.

Khoảng cách giữa đường chéo và đường Lozen là một dấu hiệu cho biết mức độ bất bình đẳng. Đường Lozen càng xa đường chéo thì mức độ bất bình đẳng càng lớn, điều đó cũng có nghĩa là phần trăm thu nhập của người nghèo nhận được giảm đi.

Hệ số GINI

Đường Lozen sử dụng mức độ đo lường mức độ bình đằng được biểu thị bằng hình vẽ. Hạn chế của đường Lozen là không lượng hóa được mức độ bất bình đẳng và trong trường hợp so sánh 2 phân phối thu nhập, nếu đường Lozen tương ứng với 2 phân phối đo cắt nhau thì không thể xếp hạng sự bất bình đẳng được. Vì vậy phải biểu thị thước đo bằng có số.

Hệ số GINI (G) là thước đo được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu thực nghiệm. Dựa vào đường Lozen có thể tính toán hệ số GINI. Hệ số GINI chính là tỷ số giữa diện tích được giới hạn bởi đường cóg Lozen và đường chéo 450 với diện tích tam giác nằm bên dưới đường 450.

Hệ số GINI(G) = Diện tích (A)/ Diện tích (A+B)

Về lý thuyết hệ số GINI có thể nhận được giá trị từ 0 đến 1. Song thực tế: 0<G<1. Theo Ngân hàng thế giới thì giá trị thực tế cho thấy G trong khoảng 0.2 đến 0.6. Với các nước có thu nhập thấp, hệ số GINI biến động từ 0.3 đến 0.5 còn các nước có thu nhập cao từ 0.2 đến 0.4. Tuy hệ số GINI đó lượng hóa được mức độ bất bình đẳng về phân phối thu nhập, nhưng các nhà kinh tế nhận thấy rằng hệ số GINI cũng chỉ mới phản ánh được mặt tổng quát nhất của sự phân phối, trong một số trường hợp chưa đánh giá được những vấn đề cô thể.

Mối quan hệ giữa tăng trưởng và giảm nghèo

Nhỡn chung, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững sẽ dẫn đến giảm nghèo. Trên thực tế, chiều tác động của của tăng trưởng kinh tế lên giảm nghèo khá khác nhau: một số nước như Ấn Độ (Những năm 1970), Philippin (những năm 1980 và 1990) đó giảm được nghèo một cách đáng kể mặc dù chỉ đạt mức độ tăng trưởng khiêm tốn hoặc thậm chí còn có giảm sút trong thu nhập bình quân đầu người. Ngược lại một số nước như Thái Lan (những năm 1980) Malaixia (những năm 1990) và Sri Lanka (những năm 1990) đó thất bại trong giảm nghèo mặc dù đạt được mức tăng trưởng khá cao trong thu nhập bình quân đầu người. Kinh nghiệm của Việt Nam cũng cho thấy suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX và đầu những năm 2000. Tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với giảm nghèo nhanh chóng. Tuy nhiên, tác động giảm nghèo của tăng trưởng kinh tế đó suy giảm trong những năm gần đây: 1% tăng trưởng GDP đưa đến giảm 0.77% số người nghèo trong những năm 1993- 1998 nhưng chỉ còn 0.66% giai đọan 1998-2002. Điều này cho thấy tác động rất khác nhau của những chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cô thể cho từng giai đoạn.

Nghèo đói có thể ngăn cản tăng trưởng kinh tế Vì người nghèo có năng suất lao động thấp do sức khỏe kém và kỹ năng lao động bất cập sẽ làm sói mòn năng lực sản xuất của nền kinh tế. Nghèo đói cũng làm suy giảm năng lực tiết kiệm và đầu tư, làm cho tăng trưởng kinh tế bị triệt tiêu dần.Thêm vào đó, những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp cũng ngăn cản người nghèo tiếp cận với các khoản vay trên thị trường tín dụng. Hệ quả tất yếu: người nghèo ít có khả năng khai thác những cơ hội tích lũy vốn vật chất và vốn có người. Điều này làm giảm tốc độ tăng trưởng của thu nhập, và hệ quả có thể là nghèo đói gia tăng. Ngược lại việc giảm nghèo rất có lợi cho tăng trưởng kinh tế: Khi mức nghèo tuyệt đối giảm đáng kể thì song song đó, chúng ta thường chứng kiến mức tăng trưởng kinh tế cao, bởi Vì phần lớn những chính sách tăng thu nhập của người nghèo một cách hiệu quả như đầu tư vào giáo dục tiểu học hạ tầng nông thôn, chăm sóc sức khỏe và nâng cóa dinh dưỡng cũng là các chính sách gia tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế. Có thể kết lụân rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần cho giảm nghèo, chứ chưa là điều kiện đủ.

Theo UNDP định nghĩa tăng trưởng có lợi cho người nghèo là tăng trưởng kinh tế đưa đến phân phối lại thu nhập có lợi cho người nghèo. Còn theo ADB cho rằng tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo khi đó là dạng tăng trưởng tận dụng lao động và kèm theo bằng những chính sách và chương trình giảm thiểu những bất bình đẳng, thúc đẩy tạo việc làm và tăng thu nhập cho người nghèo, đặc biệt là cho phụ nữ và các nhóm xã hội bị cô lập.

Nói cách khác Tăng trưởng kinh tế có lợi cho người nghèo là tăng trưởng tối đa hóa tác động tích cực của tăng trưởng trong việc giảm nghèo. Một chiến lược tăng trưởng có lợi cho người nghèo không chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà còn tác động đến mô hình phân phối thu nhập để từ đó người nghèo hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế theo một tỷ lệ lớn hơn người giàu thu hẹp lại khoảng cách giàu nghèo và cuối cùng là xã nghèo.

Bất bình đẳng và nghèo đói trong tăng trưởng kinh tế

Việc giảm nghèo tuyệt đối về cở chế do 2 bộ phận cấu thành: do tăng trưởng thu nhập trung bình (trong điều kiện phân phối thu nhập không đổi) và do sự giảm sút bất bình đẳng ( trong điều kiện thu nhập chung không đổi). Các nhà kinh tế phân tách hai tác động kể trên thành tác động do tăng trưởng và tác động do phân phối lại. Bên cạnh đó, ngay cả khi bất bình đẳng không tăng nhưng mức độ bất bình đẳng ban đầu cao cũng hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế giảm nghèo.Thêm nữa, bất bình đẳng thấp còn có tác dụng thúc đẩy gia tăng tỷ lệ giảm nghèo trong tương lai Vì hệ số có dón của tỷ lệ nghèo đối với thu nhập bình quân tỷ lệ nghịch với bất bình đẳng. Như vậy có thể thấy song song mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và nghèo đói, giảm nghèo cần được xem xét trong mối quan hệ giữa nghèo và bất bình đẳng trong quá trình tăng tưởng

0