Mở rộng hoạt động tín dụng
Những năm 70 khi hầu hết các NHTM trên thế giới đều chịu sự quản lý hết sức chặt chẽ của chính phủ thông qua việc ấn định lãi suất tiền gửi, hạn chế mở chi nhánh, giới hạn mức cho vay tối đa, giới hạn phạm vi hoạt động… Các ngân hàng ...
Những năm 70 khi hầu hết các NHTM trên thế giới đều chịu sự quản lý hết sức chặt chẽ của chính phủ thông qua việc ấn định lãi suất tiền gửi, hạn chế mở chi nhánh, giới hạn mức cho vay tối đa, giới hạn phạm vi hoạt động… Các ngân hàng không phải đối phó với những thay đổi đột xuất trên thị trường, nên yên tâm hoạt động không cần quan tâm đến nhu cầu của khách hàng. Chính phủ khống chế sao cho “chiếc bánh thị trường” luôn đủ no cho các NHTM. Do đó các ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc yên tâm bán cái mình có. Tuy nhiên, sau thời kỳ trên, nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách mới…tất cả đã tạo nên không khí cạnh tranh sôi nổi, buộc các ngân hàng phải quan tâm tới thị trường, khách hàng nếu muốn mở rộng tín dụng, muốn tồn tại.
Ngoài những yếu tố mang tính khách quan tác động đến quy mô và cơ cấu khoản vay như vị trí địa lý của ngân hàng, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, quy mô, cơ cấu ngân hàng… thì những vấn đề bên trong ngân hàng như chính sách khách hàng, dịch vụ ngân hàng cung cấp, công tác thông tin tuyên truyền, mở rộng mạng lưới… là những nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng hoạt động tín dụng. Mục tiêu cuối cùng của các chính sách đó chính là nhằm thoả mãn một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, qua đó thu hút khách hàng quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đó cũng chính là mục tiêu của hoạt động Marketing.
Chính vì vậy, để thực hiện tốt chính sách khách hàng, công tác mở rộng mạng lưới, thông tin tuyên truyền thì ngân hàng cần nhất phải chú trọng công tác Marketing ngân hàng - đó là công cụ hữu hiệu nhất để nâng cao sức mạnh cạnh tranh, để chiến thắng đối thủ cạnh tranh, mở rộng các đối tượng và quy mô vay vốn của khách hàng.
Nội dung của Marketing tín dụng tập trung vào 4 vấn đề chính: Chính sách về sản phẩm, chính sách về giá cả, chính sách về phân phối và chính sách tuyên truyền quảng cáo.
Chính sách về sản phẩm tín dụng
Cụ thể là nghiên cứu các hình thức tín dụng, mỗi hình thức cho vay là một sản phẩm cụ thể. Nội dung của chính sách này phải giải quyết được câu hỏi: Khả năng thích ứng của các hình thức tín dụng hiện tại đối với nhu cầu thị trường ở mức nào? Định hướng cải tiến đổi mới hình thức tín dụng cũ và phát triển ra đời các hình thức tín dụng mới. Ngân hàng cần tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng với chất lượng cao để khách hàng lựa chọn.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngoài hai thuộc tính như những hàng hoá, dịch vụ thông thường, nó còn mang những nét đặc thù riêng biệt bởi lẽ ngân hàng không chỉ hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà còn nhiệm vụ quan trọng khác là ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế, kiểm soát lạm phát tạo đà tăng trưởng kinh tế. Sản phẩm của ngân hàng thường đơn điệu- bao gồm những nghiệp vụ cơ bản- và có tính xã hội hoá và tính công cộng cao do tất cả các ngân hàng đều kinh doanh những sản phẩm này. Tuy nhiên hoạt động của ngân hàng lại phải chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, phải hoạt động trong hành lang hẹp của pháp luật. Cho nên, ngân hàng phải có chính sách sản phẩm tốt và phù hợp bằng những biện pháp như:
- Hoàn thiện và củng cố chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có
- Phát triển sản phẩm mới, cần đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế khi thấy đủ điều kiện và ở thời điểm thích hợp, chọn cách đưa sản phẩm mới vào thị trường hợp lý.
- Thường xuyên đánh giá, phân tích sản phẩm dịch vụ để tìm kiếm lợi ích riêng có của sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
- Luôn gắn biểu tượng, hình ảnh tốt của ngân hàng mình trong các sản phẩm dịch vụ chung ứng cho khách hàng.
Việc phát triển hình ảnh của sản phẩm doanh nghiệp ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng. Đi đôi với nó là sự phát triển và duy trì nhóm sản phẩm doanh nghiệp thích hợp trên cơ sở tập hợp những yêu cầu của khách hàng; nhóm sản phẩm dịch vụ đó cần được theo dõi để hoàn thiện và đưa ra sản phẩm dịch vụ mới. Quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng có xu hướng tập trung vào việc hoàn thiện những sản phẩm dịch vụ hiện tại và phát triển sản phẩm dịch vụ mới.
Chính sách về giá cả (lãi suất cho vay)
Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là số tiền mà khách hàng hay ngân hàng phải trả để được quyền sử dụng một khoản tiền trong thời gian nhất định hoặc sử dụng các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Với các sản phẩm là các khoản tín dụng ngân hàng cung cấp ở đây thì giá cả chính là lãi suất cho vay. Chính sách giá cả cần hướng tới những mục tiêu:
- Thu hút khách hàng mới và phải tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng.
- Tăng doanh số hoạt động là mục tiêu quan trọng của chiến lược giá.
- Chiến lược giá phải nhằm vào việc tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng.
Định giá là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động của cả ngân hàng và khách hàng, đến thu nhập và mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Việc định giá sản phẩm dịch vụ ngân hàng hết sức phức tạp vì nó bị chi phối bởi nhiều nhân tố. Vì vậy, khi xây dựng chính sách giá, các ngân hàng thường phải dựa trên những căn cứ sau:
- Chi phí là các nguồn lực mà ngân hàng phải bỏ ra để duy trì sự hoạt động và cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Chi phí gồm hai loại cơ bản là chi phí cố định và chi phí biến đổi. Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng tối thiểu phải bù đắp đủ các chi phí phát sinh. Cách thức tổ chức cung ứng sản phẩm dịch vụ, chất lượng dịch vụ, trình độ kỹ thuật, chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên khác nhau sẽ dẫn đến chi phí khác nhau và cũng tạo nên sự khác biệt về giá giữa các ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng thường gặp khó khăn trong việc xác định chính xác cơ cấu chi phí đối với từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, việc định giá sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thường hướng tới việc xác định tổng chi phí, tổng thu nhập hơn là xác định chi phí cho từng loại sản phẩm dịch vụ.
- Rủi ro thực chất là các khoản chi phí tiềm ẩn. Khi rủi ro phát sinh, nó sẽ trở thành các khoản chi phí thực mà ngân hàng phải bù đắp trong quá trình hoạt động. Do vậy, định giá cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phải tính đến yếu tố rủi ro. Đối với các sản phẩm có rủi ro cao hơn, ngân hàng thường phải định một mức giá cao hơn và ngược lại.
- Đặc điểm cầu của khách hàng. Các nhóm khách hàng khác nhau đặc điểm đường cầu khác nhau và có phản ứng khác nhau với những thay đổi của giá (có nhóm nhạy cảm nhưng có nhóm không nhạy cảm với giá). Do đó, để tối ưu hoá lợi nhuận, ngân hàng thường định giá căn cứ và sự phản ứng của khách hàng đối với giá. Đối với nhóm ít nhạy cảm, ngân hàng có thể áp dụng mức cao hơn và ngược lại.
- Giá của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngân hàng phải tính tới yếu tố này khi xác định giá sản phẩm dịch vụ, vì giá là nhân tố ảnh hưởng lớn tới năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Nếu một ngân hàng định giá cao trong khi chất lượng sản phẩm dịch vụ không có gì vượt trội, sức hấp dẫn của sản phẩm dịch vụ lại thấp chắc chắn sẽ có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng khác có giá kích thích hơn.
Chính sách phân phối.
Đây là chính sách bán hàng của ngân hàng. Nội dung chủ yếu là bán hàng cho ai và bán hàng như thế nào? Đối với ngân hàng, việc lựa chọn để bán hàng cho ai cực kỳ quan trọng vì ngân hàng chỉ bán “quyền sử dụng vốn” chứ không bán “quyền sở hữu vốn”. Do đó, nguyên tắc bán hàng là “chọn mặt gửi vàng”. Bán như thế nào là nghiên cứu tập hợp toàn bộ những phương tiện và phương pháp đưa vốn tín dụng đến khc theo các mục tiêu đã chọn.
Nhờ có chính sách phân phối mà sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân phối đóng vai trò tích cực trong việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng để ngân hàng chủ động trong việc cải tiến hoàn thiện sản phẩm dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang nét đặc thù rất lớn do vậy trong quá trình phân phối cũng cần có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân sự năng động, tinh nhuệ:
- Nhà cửa đồ sộ, chắc chắn tạo uy tín với khách hàng, thu hút khc nhiều hơn bởi độ tin cậy vào tài sản.
- Đội ngũ nhân sự năng động, nhiệt tình, kỹ thuật nghiệp vụ cao có thiện cảm với khách hàng, mức phán quyết về khối lượng dịch vụ cung ứng cho mỗi loại nhân viên ngân hàng là cần thiết, tạo niềm tin cho khách hàng.
Mạng lưới văn phòng giao dịch, chi nhánh trong phân phối cũng rất cần thiết, một địa điểm phù hợp, thuận tiện cho giao dịch sẽ tiết kiệm và đẩy nhanh tiêu thụ. Một mạng lưới rộng khắp, phân theo địa danh hành chính đôi lúc gây cản trở, lãng phí trong giao dịch ngân hàng, ngược lại một mạng lưới phân phối được nghiên cứu kỹ càng “ở đâu có nhu cầu về sản phẩm, xét thấy hiệu quả” đặt chi nhánh văn phòng giao dịch, số lượng nhân viên tuỳ thuộc vào khối lượng công việc, sự phát triển của đơn vị.... là tiết kiệm, hiệu quả. Hoạt động ngân hàng cung cấp dịch vụ tại nhà thông qua bưu điện, máy vi tính được nối mạng, đội ngũ nhân sự tận tâm hoà nhã cũng giúp cho ngân hàng phân phối sản phẩm tốt có hiệu quả. Phong cách phục vụ, thái độ phục vụ, kỹ năng ứng xử với khách hàng, mối quan hệ gia đình, bạn bè thân thuộc cũng giúp ích cho việc phân phối dịch vụ ngân hàng tốt hơn.
Hiện nay, có các cách cung cấp sản phẩm, dịch vụ như:
- Các chi nhánh cung cấp tất cả các loại sản phẩm, dịch vụ, đây là cách cung cấp truyền thống yêu cầu khách hàng phải đến ngân hàng để giao dịch.
- Các chi nhánh cung cấp một số dịch vụ ngân hàng đặc biệt hay chuyên biệt: Ưu điểm chi phí thấp, chuyên môn cao, chỉ cung cấp các dịch vụ có lợi nhuận cao do đó nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.
- Các chi nhánh tự động hoàn toàn nhờ vào kỹ thuật điện tử: Ưu điểm nhanh chóng, phí thấp, nhưng đôi lúc mọi người cũng không tin vào máy móc lắm.
- Thiết bị đầu cuối thông minh đảm bảo liên lạc giữa khách hàng và ngân hàng thông qua máy tính được nối mạng, khai thác để thực hiện các dịch vụ chuyển tiền, tín dụng thu, nhận từ ngân hàng tất cả các thông tin tư vấn, giải thích.
- Các dịch vụ ngân hàng tại nhà: Thực hiện các giao dịch tại nhà thông qua hệ thông thông tin liên lạc bằng điện thoại, với sự trợ giúp đắc lực của máy tính các dịch vụ ngân hàng được xử lý, cung ứng nhanh chóng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng mà họ không phải ra khỏi nhà.
Việc lựa chọn cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng bằng cách nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đó là đặc điểm của thị trường, tính chất của sản phẩm dịch vụ ngân hàng, đặc điểm của môi trường kinh doanh, mức độ cạnh tranh trên thị trường, trình độ kĩ thuật công nghệ của ngân hàng, quan điểm của các nhà lãnh đạo ngân hàng, đặc biệt là nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của khách hàng trên thị trường ngân hàng.
Chính sách tuyên truyền quảng cáo
Các hoạt động truyền thông làm cho công chúng hiểu rõ, đầy đủ hơn về sản phẩm dịch vụ ngân hàng giúp khách hàng có căn cứ quyết định việc lựa chọn sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động quan hệ giúp các nhà ngân hàng nắm được những thông tin phản hồi từ khách hàng cả về mức độ thoả mãn và sự không hài lòng của chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để ngân hàng điều chỉnh sản phẩm, giá, hệ thống phân phối và các hoạt động khác cho phù hợp với nhu cầu mong muốn của khách hàng.
Trong hoạt động tín dụng, chính sách tuyên truyền quảng cáo nhằm mục đích giới thiệu các hình thức, thể loại cho vay, cơ chế, chính sách cho vay... Vấn đề này giúp ngân hàng mở rộng và phát triển các loại dịch vụ cung ứng, tạo mối quan hệ rộng lớn từng bước mở rộng thị trường, tăng sự thích ứng, tăng hiệu quả trong kinh doanh.
Như vậy, mục tiêu của chính sách tuyên truyền quảng cáo, nhằm đạt đến:
- Số lượng người biết đến ngân hàng nhiều lên trong thời gian ngắn.
- Số lượng sản phẩm dịch vụ tiêu thụ tăng lên, doanh thu tăng lên.
- Chi phí quản lý điều hành phân bổ cho sản phẩm tiêu thụ giảm xuống, lợi nhuận tăng lên trên một đơn vị sản phẩm.
Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo phải được thực hiện thường xuyên, lựa chọn cách thức quảng cáo phù hợp:
- Có thể quảng cáo thông qua ưu thế sản phẩm riêng có trên thị trường.
- Quảng cáo gây ấn tượng, cảm giác mạnh, lâu quên...
Trong khi tuyên truyền, quảng cáo cấn lưu ý các vấn đề cơ bản sau:
- Ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng khi quảng cáo phải chuẩn xác, thống nhất, ngắn gọn, gây ấn tượng, dễ hiểu, dễ nhớ.
- Phải phản ánh được tầm nhìn, mục tiêu chiến lược mà ngân hàng muốn đạt tới hiện tại và tương lai.
- Phải giới thiệu được hình ảnh riêng biệt của ngân hàng khi tuyên truyền, quảng cáo.
- Những biện pháp cơ bản của ngân hàng để đặt được mục tiêu chiến lược và tạo được hình ảnh riêng có của mình.
- Phải tạo ra một phản ứng dây chuyền từ cá nhân, nhóm này sang cá nhân, nhóm khác và cứ như vậy...
Trong khi tuyên truyền về sản phẩm, dịch vụ chúng ta phải tuân thủ đầy đủ các bước mang tính hệ thống, có như vậy việc tuyên truyền mới có hiệu quả:
- Xác định các mục đích của tuyên truyền hiệu quả.
- Chuẩn bị thông tin tuyên truyền thật chu đáo, chuẩn xác.
- Lựa chọn phương tiện thông tin tuyên truyền hợp lý
- Thực hiện các phương pháp tuyên truyền thích hợp
- Phân tích các kết quả của chiến lược tuyên truyền, quảng cáo.
Tất cả những vấn đề trên cho chúng ta thấy rằng chính sách tuyên truyền quảng cáo là việc làm cần thiết. Thông qua tuyên truyền quảng cáo chúng ta mau chóng thâm nhập và mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí mang lại lợi ích kinh tế cho mỗi ngân hàng. Thông qua mức bán, số lượng người mua, mức tăng lên của thị phần mà chúng ta có thể đánh giá chính sách tuyên truyền, quảng cáo có phù hợp hay không phù hợp....
Với những nội dung hoạt động như trên Marketing ngân hàng có những vai trò hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng:
- Trước hết, Marketing là công cụ chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. Cơ chế thị trường là cơ chế cạnh tranh nên làm thế nào để chiến thắng các đối thủ cạnh tranh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Thông qua công tác nghiên cứu thị trường, với chính sách mở rộng thị phần, và các chính sách về khách hàng của mình ngân hàng đã tổ chức thu thập được thông tin, hiểu rõ về thị trường qua đó hiểu nhu cầu của khách hàng từ đó tạo ra những sản phẩm có khả năng thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng- nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Marketing ra đời gắn liền với cạnh tranh, do đó mục tiêu chiến thắng đối thủ cạnh tranh luôn được các nhà marketing ngân hàng quan tâm. Do đó trong quá trình ra quyết định các nhà quản trị marketing luôn phải cân nhắc đến những phản ứng của khách hàng cũng như đối thủ cạnh tranh.
- Marketing- công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng. Kinh doanh trong cơ chế thị trường thì khách hàng là lực lượng nuôi sống mình, bởi vậy các nhà quản trị luôn tìm mọi cách để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng. Mục tiêu cuối cùng của Marketing là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, chính vì vậy marketing nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tìm cách đưa đến khách hàng những dịch vụ phù hợp nhất, nhanh nhất với giá cả hợp lý nhất; tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái nhất khi tiến hành giao dịch; chỉ dẫn cho khách hàng tiện ích mới mà khách hàng chưa biết… Do đó marketing là công cụ hữu hiệu nhất thu hút khách hàng.
- Marketing- công cụ kinh doanh hiện đại của các NHTM trong cơ chế thị trường. Với những chính sách phù hợp của Chính phủ nhằm tạo một sân chơi bình đẳng cho các NHTM đã làm thị trường trở lên sôi động hơn, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn đòi hỏi các ngân hàng buộc lòng phải quan tâm đến thị trường, đến khách hàng thông qua việc sử dụng công cụ marketing. Sự thay đổi lớn lao trong môi trường văn hoá xã hội và công nghệ thông tin đã thúc đẩy các NHTM thừa nhận và sử dụng marketing như một một cách mạnh mẽ hơn. Các xu hướng tiêu dùng mới, sự hiểu biết của khách hàng…làm thay đổi nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần một công cụ mới giúp họ đối phó với thị trường một cách hợp lý hơn, đồng thời đảm bảo có thể chào bán cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất.
- Marketing công cụ kết nối hoạt động của ngân hàng với thị trường. Định hướng thị trường trở thành một điều kiện tiên quyết trong kinh doanh của các ngân hàng hiện nay. Thị trường là nơi các ngân hàng có thể tìm kiếm nhu cầu khách hàng, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tìm kiếm thông tin… qua đó thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.