25/05/2018, 07:30

Lý luận chung về cho vay và rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại

Khái quát về ngân hàng thương mại Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm, hình thức sơ khai của ngân hàng xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức hoạt động của nó ngày càng ...

Khái quát về ngân hàng thương mại

Trên thế giới, nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm, hình thức sơ khai của ngân hàng xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản, cùng với thời gian các hình thức hoạt động của nó ngày càng được thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của sản xuất và trao đổi của hàng hoá. Khi mà nền sản xuất phát triển hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi quan hệ trao đổi hàng hoá phát triển vượt ra khỏi ranh giới giữa các vùng sử dụng các loại đồng tiền khác nhau nó làm nảy sinh khó khăn trong thanh toán giữa các đồng tiền khác nhau. Khi đó, những thương gia giàu có và thông minh nhất đã nắm được cơ hội này và chuyển sang nghề buôn tiền: Họ thực hiện các nghiệp vụ về nhận tiền gửi, thu đổi tiền và bảo quản tiền (cho khách hàng) và có thu phí của người gửi. Cùng với việc nhận tiền gửi các nhà ngân hàng dần dần còn thực hiện cả nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng (người gửi tiền), nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi xuất hiện những người có nhu cầu vay để mở rộng sản xuất kinh doanh trong khi các nhà ngân hàng lại có sẵn trong két những khoản tiền lớn không sinh lời. Khi cho vay các nhà ngân hàng được nhận các khoản trả tiền lãi từ người vay tiền. Chính vì các khoản thu này đã khuyến khích các ngân hàng muốn nhận được nhiều tiền gửi để cho vay và họ đã chuyển từ việc thu phí người gửi tiền sang việc miễn phí tiền gửi thậm chí còn trả cho người gửi tiền một khoản tiền gọi là lãi tiền gửi. Khi mà tồn tại các nghiệp vụ cho vay, thanh toán và nhận tiền gửi có thể nói ngân hàng đã được hình thành.

Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)

Khi nghiên cứu về NHTM các nhà kinh tế đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về NHTM. Có ý kién cho rằng: "NHTM là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay", có ý kiến lại cho rằng: "NHTM là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc". Sở dĩ có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM là do các nghiệp vụ của ngân hàng rất đa dạng, các thao tác của từng nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và vấn đề này luôn biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác do tập quán, luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến những quan niệm khác nhau về NHTM.

Còn theo luật ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính của Việt Nam ban hành ngày 24/5/1990 thì: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".

Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Thông qua các nghiệp vụ NHTM đã chứng tỏ được sự cần thiết của hệ thống ngân hàng trong phát triển nền kinh tế thị trường, ngân hàng là đòn bảy của nền kinh tế.

Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM

- Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Nó quyết định quy mô cũng như hiệu quả của các hoạt động khác của NHTM. NHTM có thể huy động vốn nhàn rỗi của nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau như: nhận tiền gửi của các cá nhân, tổ chức kinh tế, phát hành trái phiếu, kì phiếu và phát hành các chứng từ tiền hay vay vốn của NHNN hoặc các tổ chức tín dụng khác.

Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM còn phụ thuộc đáng kể vào vốn tự có của ngân hàng và những quy định cụ thể của nhà nước về tỉ lệ giữa vốn chủ sở hữu với vốn huy động thông qua tỉ lệ này NHNN đã hạn chế được một số rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam các NHTM không được phép huy động quá 20 lần số vốn tự có.

- Nghiệp vụ cho vay và đầu tư: Đây là hoạt động kinh doanh chủ yếu của các NHTM cũng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho các NHTM. Để thực hiện nghiệp vụ này NHTM sử dụng phần lớn là số vốn mà ngân hàng huy động được từ nền kinh tế để cung cấp cho các nhu cầu của nền kinh tế thông qua hình thức cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán, góp vốn tham gia, hay tự đầu tư vào các dự án mang lại lợi nhuận.

Thông qua các nghiệp vụ này NHTM đã trở thành một trung gian tài chính hoàn hảo. Nó đã điều chuyển vốn cho nền kinh tế từ nơi có vốn sang nơi cần vốn thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn và sâu hơn. Thông qua các nghiệp vụ này ngân hàng làm cho tốc độ lưu thông tiền tệ tăng mạnh, nó góp phần đẩy nhanh qt sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Bên cạnh đó nó còn tác động tới lượng tiền mặt trong lưu thông cùng với chi phí lưu thông giảm một cách đáng kể và tận dụng được những nguồn vốn nhàn rỗi một cách tối đa thông qua đó còn thực thi được chính sách tiền tệ quốc gia.

Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng của NHTM (chủ yếu hoạt động cho vay). Hoạt động này nó có liên quan mật thiết với các ngành, lĩnh vực, đối tượng mà ngân hàng cấp tín dụng. Do vậy rủi ro trong hoạt động cho vay của các NHTM là rủi ro tiềm ẩn từ tất cả các ngành nghề các lĩnh vực mà ngân hàng cho vay. Chính vì vậy việc nghiên cứu rủi ro tín dụng hay rủi ro trong cho vay là vấn đề cấp bách luôn được các NHTM quan tâm:

- Các hoạt động dịch vụ

Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt động dịch vụ để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, nhằm thu hút khách hàng tới với ngân hàng và để có thêm khoản thu khác ngoài thu từ lãi cho vay. Các dịch vụ của ngân hàng như:

+Dịch vụ thanh toán hộ

+ Dịch vụ mua bán và môi giới chứng khoán

+ Dịch vụ tư vấn

+ Dịch vụ quản lý tài sản và các chứng từ có giá.

Có thể nói các nghiệp vụ của NHTM có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận hành của cả bộ máy. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ tạo tiền đề cho các nghiệp vụ tín dụng, đầu tư. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, đầu tư mang lại thu nhập cho ngân hàng để tái tạo các nguồn vốn khác. Còn các dịch vụ khác của ngân hàng nhằm thu hút khách hàng đến với ngân hàng tạo điều kiện cho việc mở rộng huy động vốn và mở rộng thị trường kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất. Vì nghiệp vụ này nó quyết định đến cả một qt kinh doanh của ngân hàng đó là lợi nhuận.

Nghiệp vụ cho vay của NHTM

Khái niệm về cho vay

Cho vay là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể trong đó một bên chuyển giao tiền cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền cam kết hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn.

Cho vay là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng khi thực hiện tín dụng ngân hàng. Đây là nghiệp vụ chủ yếu khi ngân hàng quyết định cấp tín dụng cho khách hàng và cũng là nghiệp vụ mang về thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra với ngân hàng. Do vậy các NHTM luôn phải quan tâm tới rủi ro trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra đối với ngân hàng.

Phân loại cho vay

- Cho vay thầu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn xác định trong khoảng thời gian xác định, giới hạn này gọi là hạn mức thầu chi.

Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho những khách hàng có khoản thu chi không phù hợp về thời gian và quy mô thuận lợi trong quá trình thanh toán nhanh và giúp khách hàng kịp thời.

Hình thức thầu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, thủ tục đơn giản, thường những khoản vay thầu chi là không có tài sản đảm bảo. Hình thức này cho vay chỉ với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn.

- Cho vay trực tiếp từng lần:

Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thầu chi. Hình thức cho vay này tương đối đơn giản về thủ tục và có thể kiểm soát được các khoản cho vay. Hình thức này an toàn hơn hình thức thầu chi.

- Cho vay theo hạn mức tín dụng:

Đây là hình thức cho vay theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức này có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đólà số dư tối đa tại thời điểm tính.

Hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng về nhu cầu vốn khi cần thiết sẽ được ngân hàng giải quyết cho vay một cách nhanh chóng giúp khách hàng chớp được thời cơ trong kinh doanh. Ngân hàng dựa vào cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn của khách hàng để cấp cho khách hàng những hạn mức phù hợp.

Bên cạnh những thuận lợi cho khách hàng thì về phía ngân hàng gặp một số khó khăn trong khâu quản lý nguồn vốn và hiệu quả sử dụng vốn của từng lần vay.

- Cho vay luân chuyển

Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng khi có nhu cầu về vốn để mua hàng hoá, và sẽ thu vốn về khi khách hàng bán được hàng. Hình thức cho vay này đơn giản thuận lợi cho khách hàng về thời gian và thủ tục.

- Cho vay trả góp:

Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.

Hình thức này thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định.

Cho vay trả góp chứa đựng rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập của ngời vay do đó lãi suất của hình thức này thường cao hơn lãi suất thông thường.

- Cho vay gián tiếp:

Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Các tổ chức có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên trong nhóm vay khi mà các thành viên không có tài sản thế chấp. Qua hình thức cho vay này ngân hàng có thể mở rộng thị trường và qua hình thức này ngân hàng hỗ trợ phát triển kinh tế cho các hộ nghèo không có điều kiện vay vốn của ngân hàng trực tiếp.

Vai trò của hàng hoá cho vay đối với nền kinh tế

Hoạt động cho vay của ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Nó là đòn bảy kinh tế phục vụ cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá bởi đặc trưng cơ bản của tín dụnglà sự vận động dựa trên cơ sở hoàn trả và có lợi tức. Thông qua nghiệp vụ này nhà nước có thể điều chỉnh sự phát triển cơ cấu ngành nghề của cả nền kinh tế và thúc đẩy sự ra đời của các thành phần kinh tế theo định hướng của đất nước.

Thông qua nghiệp vụ cho vay của các NHTM nó đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Nó tác động trực tiếp tới từng ngành nghề tới công nghệ, máy móc trang thiết bị phục vụ cho quá trình công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong lĩnh vực lưu thông, để đảm bảo đưa được hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần có vốn để dự trữ khối lượng hàng hoá cần thiết để trang trải các chi phí. Hơn nữa để mở rộng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải dự trữ khối lượng hàng hoá lớn với chủng loại phong phú, nhưng thông thường các doanh nghiệp này không có nhiều vốn lưu động vì vậy để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp này cần có sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng.

Còn với các doanh nghiệp dịch vụ như vận tải, khách sạn, du lịch sẽ hoạt động ra sao khi không có vốn của ngân hàng tham gia vào đầu tư xây dựng trang thiết bị vật chất phương tiện vận tải. Do đó hầu hết các doanh nghiệp đều cần tới tín dụng ngân hàng.

Nói chung một trong những nguồn vốn quan trọng để bổ xung vốn lưu động và vốn cố định cho các doanh nghiệp là vốn vay từ ngân hàng vì nếu chỉ dựa vào vốn tự có thì quá ít ỏi, không đủ sức cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thị trường.

Bên cạnh các yếu tố trên tín dụng ngân hàng còn là một công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện các chương trình dự án mang tính xã hội.

Mặt khác từ hoạt động tín dụng nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đưa ra các biện pháp chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Nhà nước có thể điều chỉnh nền kinh tế theo chính sách tín dụng như chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu của nhà nước.

- Để phát huy tốt những ưu điểm của tín dụng đối với nền kinh tế quốc dân thì các ngân hàng luôn phải đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng.

Khái niệm về rủi ro

Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi.

Khi ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay cụ thể thì trong hoạt động đó luôn hàm chứa rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này nó sẽ làm giảm khoản thu nhập của ngân hàng. Do đó trong hoạt động quản lý toàn bộ ngân hàng luôn xác định một tỷ lệ tổn thất dự kiến nhằm hạn chế mức tối thiểu các thiệt hại về tài sản do các rủi ro cho vay gây ra.

Các hình thức rủi ro cho vay

Theo khái niệm về rủi ro tín dụng thì rủi ro tín dụng được chia thành các hình thức sau:

- Không thu được lãi đúng hạn

Lúc này ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Hình thức rủi ro này được xếp vào mức rủi ro thấp.

- Không thu được vốn đúng hạn

Khi không thu được vốn đúng hạn thì tình hình sử dụng vốn bị ảnh hưởng và ảnh hưởng tới tính thanh khoản của tài sản. Hình thức này gây rủi ro lớn trong nhiệm vụ đảm bảo thanh khoản và tình hình sinh lời của tài sản.

- Không thu đủ lãi

Khi ngân hàng không thu được đủ lãi thì tình hình đã trở nên nghiêm trọng. Tình hình kinh doanh của khách hàng có thể đã gặp khó khăn không hiệu quả trong việc sử dụng vốn. Lúc này ngân hàng cần có những biện pháp hỗ trợ khách hàng như giảm lãi, tư vấn cho khách hàng hoặc có thể cung cấp thêm những khoản tín dụng cần thiết cho khách hàng nếu dự án đang đầu tư là khả thi.

- Không thu đủ vốn cho vay

Khi ngân hàng không thu đủ vốn cho vay tại thời điểm này, ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ vào mục nợ không có khả năng thu hồi hoặc phải xoá nợ.

Trên đây là bốn hình thức rủi ro cho vay có thể xảy ra đối với các ngân hàng. Qua nghiên cứu để nhận biết và các biện pháp xử lý rủi ro một cách có hiệu quả nhất.

Các chỉ tiêu đo lường rủi ro trong cho vay

- Nợ quá hạn và tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ

Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.

Chỉ tiêu này ảnh hưởng đáng kể tới tính thanh khoản và rủi ro thanh khoản của ngân hàng, ảnh hưởng tới chi phí gia tăng làm giảm thu nhập của ngân hàng.

- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ

Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã qua một kỳ gia hạn nợ.

Những khoản nợ này ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp để thu lại tiền vay sao cho hợp lý nhất. Bởi vì các khoản nợ này hi vọng thu lại tiền vay là khó, lúc này khả năng chi trả của khách hàng hạn hẹp. Loại nợ này chứa đựng rủi ro cao và thường mang lại tổn thất cho ngân hàng.

Ảnh hưởng của rủi ro cho vay đối với ngân hàng

Rủi ro cho vay làm giảm doanh thu của ngân hàng

Những khoản cho vay gặp rủi ro gây cho ngân hàng những thiệt hại về mặt tài sản khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm doanh thu của ngân hàng. Còn trong trường hựop ngân hàng thu được lãi treo hay nợ quá hạn thì cũng ảnh hưởng tới tính thanh toán và rủi ro thanh khoản của ngân hàng do đó ảnh hưởng tới doanh thu của ngân hàng.

Rủi ro cho vay làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng

Rủi ro cho vay nó đã ảnh hưởng tới việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Các khoản đầu tư, cho vay thu hồi chậm hoặc không thu hồi được trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả vốn huy động một cách đều đặn cả vốn, lãi đúng kỳ hạn. Chính vì thế nó đã làm hạn chế khả năng thanh toán của ngân hàng.

Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng

Rủi ro cho vay làm giảm uy tín của ngân hàng và khả năng kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro là ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Điều này tác động mạnh tới uy tín của ngân hàng làm cho lòng tin của khách hàng vào ngân hàng bị giảm. Nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lượng khách hàng tới ngân hàng để gửi tiền cũng như sử dụng các dịch vụ của ngân hàng do đó quy mô hoạt động của ngân hàng bị ảnh hưởng và gây ra những tổn thất về tài chính.

Mặt khác nếu ngân hàng nào gặp nhiều rủi ro trong cho vay thì khả năng phá sản của các ngân hàng đó là rất cao. Bởi vì khi mà ngân hàng gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh thì khả năng thanh toán hay tính thanh khoản của ngân hàng là không cao. Mà khi ngân hàng hoạt động không hiệu quả sẽ gây tâm lý bất ổn cho người gửi tiền về khả năng chi trả củann dẫn tới họ rút tiền hàng loạt thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn nó có thể sẽ bị phá sản.

Hậu quả phá sản của một ngân hàng không chỉ mình bản thân ngân hàng đó gánh chịu mà nó còn tác động tới những ngân hàng có quan hệ với ngân hàng này. Điều này gây ra sự phản ứng dây chuyền gây ra sự phá sản hàng loạt của các ngân hàng ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Chính vì những hậu quả khó lường khi mà rủi ro tín dụng gây ra như các cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Nó đã làm nền kinh tế các nước khu vực châu Á lâm vào khủng hoảng nặng nề. Vì vậy mỗi ngân hàng phải luôn quan tâm tới rủi ro trong cho vay cũng như rủi ro tín dụng để đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng thực sự là đòn bảy cho nền kinh tế phát triển.

Các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro cho vay

Nguyên nhân thuộc về ngân hàng

- Trong quá trình cho vay, cán bộ ngân hàng làm sai quy tắc tín dụng, hoặc trình độ yếu kém không đủ khả năng thẩm định những dự án phức tạp, trình độ chuyên môn còn hạn chế chưa bắt kịp với những thay đổi của thị trường, chính những yếu điểm này đã tạo ra khe hở cho khách hàng chiếm đoạt vốn của ngân hàng.

- Bên cạnh đó yếu tố cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Các ngân hàng đã quên nhiệm vụ đảm bảo an toàn mà chạy theo chính sách lợi nhuận. Bỏ qua các quy tắc phòng ngừa rủi ro, làm sai lệch các nguyên tắc co vay, trong thẩm định dự án. Đây là chính sách mạo hiểm trong kinh doanh nó sẽ mang lại tổn thất lớn nếu xảy ra rủi ro trong hoạt động kinh doanh.

- Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ kinh doanh trong thời kỳ mới, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế cả nghiệp vụ và hiểu biết nắm bắt những thay đổi của thị trường.

- Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không tốt các đảm bảo tín dụng, người bay không đáp ứng đủ các điều kiện về tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh nhưng NHTM vẫn cho vay. Bên cạnh đó có một số cán bộ tín dụng biến chất đã thông đồng với khách hàng nâng giá trị tài sản nhằm nhằm mục đích vay được nhiều tiền. Tuy tài sản thế chấp là tiêu chuẩn thứ yếu nhưng chính nó là nguồn đảm bảo thu nợ thứ hai khi khách hàng không có khả năng trả nợ bằng nguồn thu thứ nhất. Chính vì vậy việc định giá tài sản đảm bảo cũng là một yếu tố tác động tới rủi ro ngân hàng.

Nguyên nhân từ phía khách hàng

Nguyên nhân dẫn tới rủi ro cho vay của NHTM từ phía khách hàng có thể chia làm hai trường hợp sau:

Nguyên nhân do chủ quan của người vay

Trong hoạt động cho vay

Nguyên nhân do khách quan mang lại

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh gay gắt và để tồn tại thì các doanh nghiệp phải nỗ lực hết mình trong những quan hệ phức tạp của xã hội. Tuy nhiên, rủi ro vẫn luôn là điều không thể tránh khỏi như trên đã nêu: nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng là từ các doanh nghiệp thông qua hoạt động tín dụng; chính vì vậy hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng và rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới rủi ro tín dụng của ngân hàng. Rủi ro của doanh nghiệp xảy ra như:

+ Doanh nghiệp bị rủi ro khách quan: thiên tai hoả hoạn, động đất… Đây là trường hợp bất khả kháng khó mà lường trước được.

+ Bản thân doanh nghiệp bị lừa đảo hoặc bị ảnh hưởng từ phía khách hàng của doanh nghiệp.

Ngoài các trường hợp nêu trên còn có rủi ro xuất phát từ chính sự yếu kém của bản thân doanh nghiệp. Sự cạnh tranh khắc nghiệt của thị trường luôn đặt doanh nghiệp trong tình trạng phải có sự nỗ lực cao độ vì bất kì một sự sai sót nào trong phương thức quản lý kinh tế cũng như quản lý tài chính đều dẫn đến thua lỗ, phá sản doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp

Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh

- Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng cũng như của doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Khi nền kinh tế đang tăng trưởng ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ được cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, mất ổn định đã làm cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng điều này ảnh hưởng tới các khoản nợ của các ngân hàng.

Ngoài ra, các chính sách kinh tế vĩ mô nó tác động tới hoạt động của ngân hàng. Chính phủ sẽ ưu tiên hơn về luật pháp, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực chính phủ khuyến khích đầu tư phát triển và ngược lại. Do những chính sách kinh tế của chính phủ nó đã làm giảm bớt khách hàng đến với ngân hàng từ các lĩnh vực mà nhà nước không khuyến khích phát triển.

- Môi trường chính trị, xã hội

Môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư phát triển. Đây cũng là điều kiện để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp. Ngược lại nếu môi trường chính trị, xã hội không ổn định thì các doanh nghiệp không thể yên tâm mà phát triển và luôn đặt trong rủi ro có thể ập tới bất kì lúc nào đối với doanh nghiệp cũng như ngân hàng.

- Môi trường pháp lý: Nếu như một đất nước xây dựng được một hành lang pháp lý thông thoáng và có hiệu lực sẽ thu htú được đông đảo các nhà đầu tư vào đầu tư phát triển đây là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường. Và ngược lại nếu hành lang pháp lý lỏng lẻo tạo ra nhiều khe hở, gây nên tình trạng mánh khoé, lừa đảo và gây thiệt hại lẫn nhau từ đó nó ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cho ngân hàng, thậm chí trực tiếp lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng.

Như vậy trong nền kinh tế thị trường, do những biến động của thị trường, những nguyên nhân khác nhau của nền kinh tế tác động tới hoạt động của doanh nghiệp và chính bản thân ngân hàng làm nảy sinh các biến cố trong quan hệ tín dụng làm cho các quan hệ tín dụng vận động theo những chiều hướng xấu, không có lợi cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là điều không thể tránh khỏi hay nói cách

0