25/05/2018, 07:25

Lưu Trọng Lư

Công việc Nhà thơ, nhà viết kịch (19 tháng 6 năm 1912 – 10 tháng 8 năm 1991), là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam. ...

Công việc Nhà thơ, nhà viết kịch

(19 tháng 6 năm 1912 – 10 tháng 8 năm 1991), là một nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam.

là người làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại xuất thân nho học. Thuở nhỏ, ông học trường tỉnh, rồi học ở Huế (đến năm thứ ba tại trường Quốc học Huế) và Hà Nội. Sau đó, ông bỏ học đi dạy tư, làm văn và làm báo để kiếm sống.

Năm 1932, ông là một trong những nhà thơ khởi xướng và tích cực cổ vũ cho Phong trào Thơ mới.

Năm 1933-1934, ông chủ trương Ngân Sơn tùng thư ở Huế.

Năm 1941, ông và thơ ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham gia Văn hóa cứu quốc ở Huế. Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia hoạt động tuyên truyền, văn nghệ ở Bình Trị Thiên và Liên khu IV.

Sau 1954, ông công tác ở Bộ Văn hóa và làm Tổng thư ký Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam. Năm 1957, ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Năm 1991, mất tại Hà Nội. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000.

Con trai thứ chín của ông là đạo diễn Lưu Trọng Ninh.

Thơ

  • Tiếng thu (1939)
  • Tỏa sáng đôi bờ (1959)
  • Người con gái sông Gianh (1966)
  • Từ đất này (197l)

Sân khấu

  • Nữ diễn viên miền Nam (cải lương)
  • Cây thanh trà (cải lương)
  • Xuân Vỹ Dạ (kịch nói)
  • Anh Trỗi (kịch nói)
  • Hồng Gấm, tuổi hai mươi (kịch thơ,1973)

Văn xuôi

  • Người sơn nhân (truyện, 1933)
  • Chiếc cáng xanh (truyện, 1941)
  • Khói lam chiều (truyện, 194l)
  • Mùa thu lớn (tuỳ bút, hồi ký, 1978)
  • Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)

Đánh giá

Là một trong những người tiên phong của Phong trào Thơ mới, những bài thơ của ông mà "nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta" đã góp phần khẳng định vị thế của Thơ mới. Hình ảnh:

...Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô... (Tiếng thu)

hay người mẹ với:

...Nét cười đen nhánh sau tay áo Trong nắng trưa hè trước dậu thưa (Nắng mới)

trong thơ đã trở thành những biểu tượng vượt thời gian.

Trích giới thiệu:

Tiếng thu

Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ? Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác Đạp lên lá vàng khô?

Mắt buồn

Đôi mắt em lặng buồn Nhìn thôi mà chẳng nói, Tình đôi ta vời vợi Có nói cũng không cùng. Yêu hết một mùa đông Không một lần đã nói, Nhìn nhau buồn vời vợi Có nói cũng không cùng. Trời hết một mùa đông Gió bên thềm thổi mãi, Qua rồi mùa ân ái: Đàn sếu đã sang sông. Em ngồi trong song cửa Anh đứng dựa tường hoa, Nhìn nhau mà lệ ứa, Một ngày một cách xa...

Bài thơ Tiếng thu đã được nhạc sĩ Hữu Xuân phổ nhạc thành bài hát cùng tên, còn bài Một mùa đông cũng được nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ thành bài Mắt buồn.

0