25/05/2018, 08:39

Lịch sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Quân lực Việt Nam Cộng hòa là quân đội của Việt Nam Cộng hòa. Tuy Việt Nam Cộng hòa được thành lập từ năm 1955, nhưng lịch sử của quân đội này đã bắt đầu từ cuối thập niên 1940 với tư cách là các đơn vị người Việt phục vụ trong quân đội Pháp ...

Quân lực Việt Nam Cộng hòa là quân đội của Việt Nam Cộng hòa. Tuy Việt Nam Cộng hòa được thành lập từ năm 1955, nhưng lịch sử của quân đội này đã bắt đầu từ cuối thập niên 1940 với tư cách là các đơn vị người Việt phục vụ trong quân đội Pháp tại Việt Nam. Sự tồn tại của quân đội này kéo dài đến 30 tháng 4 năm 1975.

Trong suốt thời gian chiếm đóng Đông Dương, quân đội Pháp có những người Việt phục vụ trong quân đội để đáp ứng nhu cầu chiến trường. Các quân nhân này đượt đào tạo theo quy chế Pháp và đại đa số là binh lính, hạ sĩ quan với một số rất ít sĩ quan.

Năm 1948: quân đội Pháp thành lập Trường Sĩ quan Quốc gia Việt Nam tại Huế.

Năm 1949: quân đội Pháp dời Trường Sĩ quan Quốc gia Việt Nam lên Đà Lạt và hợp lại với trường Võ bị Liên quân Đặc biệt của Pháp, lấy tên mới là Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, đào tạo sĩ quan Việt Nam cho quân đội Pháp (sau năm 1960, trường này cải tổ chương trình huấn luyện lên đến 4 năm, và đổi tên là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt).

Năm 1950: quốc hội Pháp thông qua dự luật thành lập một quân đội cho quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp với quân số 60.000 người. Cùng năm 1950, Pháp thành lập Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Ðức và Nam Định.

Năm 1952: Quốc trưởng Bảo Đại ra sắc lệnh chính thức thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 1 tháng 5 năm 1952, đặt trụ sở Bộ Tổng tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam tại số 1 đường Galiéni (sau năm 1955 là đường Trần Hưng Đạo), Sài Gòn.

Năm 1953: thành lập Trung tâm Huấn luyện Quán Tre (sau là Trung tâm Huấn luyện Quang Trung) đào tạo binh sĩ các ngành.

Năm 1954, quân số đạt khoảng 200.000 người, thuộc các binh chủng bộ binh, nhảy dù, thiết giáp, pháo binh, thông tin, công binh, quân vận, không quân, hải quân, với tổ chức như sau :

Bộ binh: gồm 67 tiểu đoàn

Công binh: 6 đại đội

Không quân: 2 phi đoàn quan sát trợ chiến, 39 phi cơ quan sát, vận tải cơ, Morane Saulnier phi cơ Pháp, Cessna L19, C45 và C47 do Hoa Kỳ cung cấp.

Nhảy dù: 5 tiểu đoàn. Cuối năm 1954, các tiểu đoàn này được tổ chức thành liên đoàn nhảy dù.

Pháo binh: 5 tiểu đoàn 150 mm

Quân vận: 6 đại đội

Thiết giáp: 1 trung đoàn thám thính, 5 chi đội chiến xa biệt lập, 1 trung tâm huấn luyện

Thông tin: 6 đại đội

Hải quân: 3 hải đoàn xung phong, 3 liên đoàn tuần giang, 1 lực lượng biệt kích không rõ quân số trang bị hai loại trung vận đĩnh (LCM—Landing Craft Medium) và tiểu vận đĩnh (LCVP—Landing Craft Vehicle And Personnel) do Hoa Kỳ cung cấp năm 1950. Lực lượng biệt kích nầy sau Hiệp định Geneva, dời vào Nam đổi tên là Hải quân bộ binh, và là tiền thân của Binh chủng Thủy quân lục chiến sau này).

Năm 1955: sau khi Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng hòa, và Quân đội Quốc gia Việt Nam từ đó cải tên là Quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cùng năm 1955, Bộ Tổng tham mưu (BTTM) không còn tùy thuộc hệ thống chỉ huy Pháp. Binh chủng không quân. Tiếp nhận căn cứ Nha Trang và đổi tên thành Căn cứ trợ lực không quân số 1. Pháo binh (PB) thành lập thêm các tiểu đoàn 6, 12, 32, 34. Hải quân được trang bị 24 chiến hạm, hơn 110 chiến đỉnh, tổ chức thành 5 hải đoàn và 1 hải lực.

Năm 1956: Bộ Tổng tham mưu dời vào trại Trần Hưng Đạo, gần cổng vào phi trường Tân Sơn Nhất, và bắt đầu cải tiến toàn bộ cơ cấu tổ chức. Các tiểu đoàn bộ binh được tổ chức lại thành 4 sư đoàn dã chiến (1, 2, 3, 4) và 6 sư đoàn khinh chiến (11, 12, 13, 14, 15, 16). Mồi sư đoàn khoảng hơn 5.000 người. Pháo binh có thêm tiểu đoàn 23, 25, 34. Tiểu Đoàn 34 là đơn vị đầu tiên được trang bị đại bác 155 mm. Cùng năm 1956, mỗi sư đoàn bộ binh được trang bị thêm 2 tiểu đoàn pháo binh với 18 khẩu 105 mm. Không quân tiếp nhận thêm căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Biên Hòa. Cả hai đổi thành Căn cứ trợ lực không quân số 2 và số 3. Hải quân bắt đầu tiếp nhận tàu chiến từ Hải quân Hoa Kỳ gồm 31 chiến hạm với 193 chiến đỉnh.

Năm 1957: thành lập binh chủng lực lượng đặc biệt, huấn luyện sĩ quan và hạ sĩ quan tại Trường Biệt động đội ở Đồng Đế, và đơn vị đầu tiên mang tên Liên đội Quan sát Số 1.

Năm 1958: quân số không quân tăng lên thành 7 phi đoàn, gồm: 1 phi đoàn khu trục, 2 phi đoàn liên lạc, 2 phi đoàn vận tải, 1 phi đoàn trực thăng, và 1 phi đoàn đặc vụ.

Năm 1959: Bộ tư lệnh các Quân đoàn I, II, III và IV được thành lập với trách nhiệm an ninh lãnh thổ như sau: Quân đoàn I ở các tỉnh miền Trung (Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, v.v...), Quân Đoàn II ở các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ (Komtum, Gia Lai, Bình Định v.v...), Quân Đoàn III ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và Sài Gòn (Tây Ninh, Bình Long, Định Tường, v.v...), Quân Đoàn IV ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ (Hậu Giang, Phong Dinh, An Giang v.v... Trong khi đo, các sư đoàn khinh binh và dã chiến binh được tổ chức lại thành 7 sư đoàn bộ binh (BB), gồm: Sư đoàn 1 BB, Sư đoàn 2 BB, Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, Sư đoàn 21, Sư đoàn 22, Sư đoàn 23. Quân số mỗi sư đoàn là 10.500 người. Sau đó, Sư đoàn 9, Sư đoàn 18, và Sư đoàn 25 được thành lập. Lữ đoàn thủy quân lục chiến tách ra khỏi hải quân và trở thành lực lượng tổng trừ bị.

Năm 1960: Binh chủng Biệt động quân được thành lập với 50 đại đội và bắt đầu hoạt động sâu trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.

Năm 1961: Binh chủng lực lượng đặc biệt cho Liên đội quan sát số 1 đổi danh thành Liên đoàn 77 Lực lượng đặc biệt. Cùng năm 1961, không quân được trang bị nhiều loại phi cơ, nhất là khu trục cơ AD6, trực thăng chiến đấu H34.

Năm 1962: Liên đoàn nhảy dù gồm các tiểu đoàn nhảy dù thuộc địa của Pháp được phát triển thành lữ đoàn nhảy dù gồm 7 tiểu đoàn nhảy dù 1, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Liên đoàn 31 lực lượng đặc biệt được thành lập. Các đơn vị không quân tác chiến và yểm trợ tác chiến được tăng lên cấp không đoàn tại mỗi Quân đoàn, với các không đoàn như sau: Không đoàn 41 (căn cứ ở Đà Nẵng), Không đoàn 62 (Plei Ku), Không đoàn 23 (Biên Hòa), Không đoàn 33 (Tân Sơn Nhất), Không đoàn 74 (Cần Thơ)

Thiết giáp M41 của Quân lực trang bị pháo 76 mm

Năm 1963: Binh chủng thiết giáp (TG) được trang bị thiết vận xa M113 và M114, 4 Trung đoàn kỵ binh thiết giáp với thám thính xa M8, chiến xa M24, và 1 liên đoàn thủy xa. Binh chủng Biệt động quân tăng quân số lên đến 86 đại đội, và thành lập thêm các bộ chỉ huy tiểu đoàn bên cạnh các Bộ Tư lệnh quân đoàn/Vùng chiến thuật, với các phiên hiệu 11, 21, 22, 31, 32, 33, và 41.

Năm 1964: Hải quân tiếp nhận tàu chiến từ Hải quân Hoa Kỳ, gồm 9 chiến hạm loại lớn và hằng trăm ghe bằng sợi thủy tinh gắn máy Yabuta thay ghe buồm của lực lượng hải thuyền. Đến 1967 đợt trang bị nầy mới kết thúc. Binh chủng thiết giáp được tân trang chiến xa M41 thay thế chiến xa M24, và thám thính xa V100 thay thế thám thính xa M8. Cùng năm 1964, Liên đoàn 77 Lực lượng đặc biệt đổi danh thành Liên đoàn 301 Lực lượng đặc biệt.

Năm 1965: Liên đoàn 301 và 31 LLĐB bị giải tán để sắp xếp lại và chính thức gọi là binh chủng lực lượng đặc biệt, gồm một Bộ Tư lệnh LLĐB, một đại đội Tổng hành dinh, một trung tâm huấn luyện, và 4 bộ chỉ huy (C) ở 4 quân khu. Mỗi C có một số B và mỗi B có một số toán A quân số vào khoảng 12 người. Tổng cộng quân số LLĐB vào khoảng 5.000 trong thời điểm đó. Lữ đoàn nhảy dù phát triển thành sư đoàn nhảy dù gồm 3 lữ đoàn (1, 2, 3) và 9 tiểu đoàn (1, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 11). Mỗi lữ đoàn được trang bị thêm 1 tiểu đoàn pháo binh với đại bác nhẹ 105 mm (TĐ1, 2 và 3 PB Nhảy Dù). Mỗi tiểu đoàn nhảy dù được trang bị thêm 1 đại đội vũ khí nặng gồm cối 60 mm, súng không giật SKG 90 mm, và trung liên M60. Các cá nhân được trang bị súng tự động AR-15, (tiền thân súng M-16). Thời điểm này các đơn vị dù bắt đầu chuyển quân theo chiến thuật trực thăng vận của Hoa Kỳ, ít còn nhảy dù bọc gió loại cổ điển vào vùng chiến thuật.

Bác sĩ người Mỹ trong chương trình MEDCAP và 1 binh sĩ người Việt Nam. Hình chụp tại 1 ngôi làng nhỏ ở miền Nam

Năm 1967: Không quân được 1 phi đoàn khu trục trang bị phản lực cơ F5. Phiên hiệu của các đơn vị không quân được cải tổ, xếp thành 3 số. Theo đó, số hàng trăm để chỉ công dụng của đơn vị, như: Số 1 là phi đoàn liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là hỏa long, và số 9 là huấn luyện.

Năm 1968: sau Sự kiện Tết Mậu Thân, Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng chương trình tối tân hóa quân sự. Đầu tiên là lực lượng tổng trừ bị, dần dần đến toàn bộ chủ lực quân được tân trang quân trang quân dụng, sử dụng súng trường tự động M-16.

Năm 1973: Sau Hiệp định Paris, Hoa Kỳ bắt đầu áp dụng chương trình "Việt Nam hóa chiến tranh", rút quân ra khỏi việt Nam và bàn giao toàn bộ quân dụng lại cho QLVNCH, chủ yếu nhằm tiếp tục phát triển hải quân, không quân, pháo binh và thiết giáp. Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cung cấp đạn dược vũ khí, nhưng bắt đầu từ tài khóa 1974-1975, nguồn viện trợ cạn dần và đến đầu năm 1975 thì đi dến tình trạng thiếu hụt trầm trọng

Năm 1975: toàn bộ QLVNCH gồm có 1 triệu quân, gần 2 triệu súng trường, 1.200 chiến xa và thiết vận xa, kể cả chiến xa M48 loại mới nhất của Hoa Kỳ, hơn 1.000 khẩu đại bác từ 105 mm xe kéo đến 175 mm cơ động, 40.000 xe vận tải, 1.600 chiến hạm chiến đỉnh, và hơn 2.000 phi cơ và trực thăng.

Đầu năm 1975: ngoài Bộ Tổng tham mưu với các cơ quan, binh chủng, và binh sở trong hệ thống quản trị (hành chánh, nhân viên, huấn luyện, chiến tranh chính trị, tiếp vận), QLVNCH còn có các đơn vị yễm trợ tác chiến gồm 4 Bộ Tư lệnh quân đoàn và các đơn vị yểm trợ trực thuộc. Các đơn vị trực tiếp tác chiến gồm

Lục quân: có 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt kích nhảy dù, 21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn kỵ binh thiết giáp, lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị pháo binh biệt lập, và lực lượng địa phương quân nghĩa quân hơn 500.00 quân

Không quân: Quân số 60.000 gồm: 1 Bộ tư lệnh quân chủng với đầy đủ các cơ quan và binh sở yểm trợ, 5 sư đoàn không quân tác chiến (20 phi đoàn khu trục cơ, trang bị khoảng 550 phi cơ A1H, A37, và F5, 23 phi đoàn trực thăng, trang bị khoảng 1000 phi cơ UH1 và CH47, 8 phi đoàn quan sát, trang bị khoảng 200 phi cơ O1, O2, và U17), 1 sư đoàn vận tải (9 phi đoàn vận tải, trang bị khoảng 150 phi cơ. C7, C47, C119, và C130), 1 không đoàn tân trang chế tạo, 4 phi đoàn hỏa long, trang bị phi cơ AC119, AC130 Spectre Gunship. Ngoài ra còn có các phi đoàn trắc giác (tình báo kỹ thuật), phi đoàn quan sát RC119L, và biệt đoàn đặc vụ 314.

Hải Quân: Quân số hơn 40.000, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, nhân viên, huấn luyện, tiếp vận (có Hải quân Công xưởng), gồm 3 lực lượng tác chiến: (1) Hành quân lưu động sông, với 14 giang đoàn trang bị khoảng 260 chiến đỉnh; (2) Hành quân lưu động biển với 1 hạm đội trang bị tuần dương hạm, hộ tống hạm, khu trục hạm, tuần duyên hạm, giang pháo hạm, trợ chiến hạm, dương vận hạm, hải vận hạm, và giang vận hạm; và (3)các lực lượng đặc nhiệm 211 thủy bộ với 6 giang đoàn, 212 tuần thám với 12 giang đoàn, 214 trung ương với 6 giang đoàn, và liên đoàn người nhái.

Tháng 3 1975, sau khi Phước Long và Buôn Mê Thuột thất thủ: tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra lệnh tái phối trí, rút bỏ quân khu I và II, dồn toàn quân về quân khu III và IV chống giữ. Cuộc rút quân tái phối trí hoàn toàn thất bại, ông Thiệu từ chức, các tướng tá tháo chạy, và trong vòng 55 ngày, toàn bộ QLVNCH tan rã, không vì giao tranh mà vì suy sụp tinh thần và không còn lãnh đạo.

Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH ngoài vành đai Sài Gòn xảy ra tại Xuân Lộc, do Sư đoàn 18 bộ binh dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo và Lữ đoàn 1 nhảy dù dưới sự chỉ huy của trung tá Nguyễn Văn Đỉnh.

Trận giao tranh cuối cùng của QLVNCH trong thành phố Sài Gòn xảy ra tại bản doanh Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, do Liên đoàn 81 biệt kích dù dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng BCH 3 Chiến thuật, thiếu tá Phạm Châu Tài.

Lực lượng tan hàng sau cùng của QLVNCH là Liên đoàn 81 biệt kích dù, dưới sự chỉ huy của chỉ huy trưởng Liên Đoàn 81 biệt kích dù, đại tá Phan Văn Huấn.

0