Lịch sử phép truyền máu
Ngày 15 tháng 6 1667: truyền máu cho người đầu tiên thành công. Sự truyền máu này có tính chữa bênh và bị cấm ba năm sau. Sự tuần hoàn máu được William Harvey khám phá năm 1628 và sự hiểu biết về sư di chuyển máu càng ngày càng tiến bộ trong những thập niên tiếp ...
Ngày 15 tháng 6 1667: truyền máu cho người đầu tiên thành công. Sự truyền máu này có tính chữa bênh và bị cấm ba năm sau. Sự tuần hoàn máu được William Harvey khám phá năm 1628 và sự hiểu biết về sư di chuyển máu càng ngày càng tiến bộ trong những thập niên tiếp theo.Năm 1657 người ta đã bắt đầu tiêm thuốc vào mạch máu các con vật với mục đích sẽ áp dụng cho người. Tiêm thuốc vào máu cho đến việc truyền máu, chỉ cần một bước để vượt qua. |
Tháng 2 năm 1666 Richard Lower, người Anh, đã truyền máu thành công trên súc vật tại Oxford. tin tức này được truyền đi nhanh chóng khắp Âu châu, được đăng lên các báo Anh tháng 11 năm 1666 và trên báo Pháp Journal des savants ngày 31 tháng 1 năm 1667. | |
Richard Lower |
Tại Paris Louis XIV thành lập Hàn lâm viện khoa học năm 1666. Các nhà bác học được vua mướn để lo về toán, nghĩa là hình học, cơ hoc và thiên văn học ngoài ra còn lo về vật lý, thời bấy giờ gồm thực vật học, hóa học và cơ thể học.
Những lần truyền máu đầu tiên do những người tình nguyện chịu nhận truyền vô họ máu của con vật.
Theo các nhà vật lý học, sự truyền máu là một đầu đề thời sự mà họ không thể không để ý đến. Các vị hàn lâm Pháp là những người đầu tiên thành công các thí nghiệm truyền máu trên chó.
Những thử nghiệm đầu tiên trên người
Đầu tiên Denis thí nghiệm trên chó. Dần dần kỹ thuật của ông tiến bộ hơn: ông không còn làm chết con vật nhận máu và phẫu thuật càng ngày càng làm bớt đau. Ông đã làm những thí nghiệm với kết quả không ngờ: khi truyền máu từ một con chó mạnh khoẻ qua con chó ghẻ, không những con chó mạnh không bị nhiễm bịnh mà con chó binh lại được lành bịnh. | |
Jean-Baptiste Denis |
Ông suy ra rằng truyền máu có thể trị bịnh và sẽ có ích cho người. Ông không muốn lấy mạng sống một người để cứu một người, nên ông nghĩ cách lấy máu con vật để truyền cho người. Ông cho rằng truyền trực tiếp máu con vật sẽ không nguy hiểm cho người vì người ăn thịt và máu con vật và thành quả của thức ăn này là thấm vào và truyền qua máu người.
Một thanh niên 15 tuổi là người đầu tiên tình nguyện thực hiện thí nghiệm này. Anh ta bị sốt nặng đã hai tháng. Người ta đã làm mất máu anh ta khá nhiều nên anh ta rất yếu. Họ nghĩ rằng anh ta còn quá ít máu và vì sốt quá nên máu đặc lại nên anh ta sẽ mạnh nếu truyền máu mới cho anh ta.
Ngày 15 tháng 6 năm 1667 họ mang con cừu con đến. Rút 90 gram máu nơi cánh tay chàng thanh niên và truyền máu con cừu vào anh ta. Kết quả mỹ mãn, anh thanh niên lành bịnh và sống bình thường.
Vài tháng sau có một người khoảng 34 tuổi, nạn nhân bị điên khùng, từ bốn chạy rông ngoài đường phố Paris, gần như trần truồng, từ bốn tháng nay. Ông de Montmor thương cảm nên bắt anh này đưa cho Denis và Emmerez chữa trị. Cả hai tin tưởng lần thành công trước nên nhận chữa trị người điên này. | |
Habert de Montmor là người bảo hộ cho khoa học nổi tiếng, khuyến khích và tài trợ cho những lần truyền máu đầu tiên nơi người, thực hiện bởi Jean-Baptiste Denis. | Ngày 19 tháng 12 năm 1667 họ chỉ truyền một ít máu bò con vô bệnh nhân nơi cánh tay phải vì thấy người này có vẻ yếu. Sáng hôm sau bệnh nhân có vẻ bình tĩnh hơn, lần này người đàn ông nhận 500 gram máu bê con nơi cánh tay trái. Hai ngày sau, ông ta chảy máu mũi và nước tiểu đen như than. Rồi thì tình trạng của ông ta khá hơn và nhiều người chứng nhận là có kết quà tốt. |
Có những người tin rằng thay đổi máu mới ngoài việc chữa trị được bịnh, còn đươc trẻ lại và con nguời sẽ bất tử nếu máu được đổi mới luôn luôn. Cũng có người dè dặt sợ nguy hiểm.
Hai tháng sau khi được truyền máu, người đàn ông điên nọ bị lên cơn, Denis được gọi đến bên giường ông ta nhưng đêm đó ông ta qua đời. Có phài vì sự truyền máu lần trước đã gây nên cái chết? Thật khó mà biết được. Và Denis bị kiện ra tòa. Vụ án nổi tiếng xảy ra và được hội đồng khoa học hỗ trợ. Những nhân chứng giải tội đến tuyên bố với tòa rằng ông ta thường xuyên than rằng vợ ông có ý đầu độc ông và anh thanh niên được Denis cứu đã đến chứng nhận việc làm tốt đẹp của ông.
Tuy Denis không bị án tù nhưng việc truyền máu quá nguy hiểm nên bị biểu quyết cấm dùng từ năm 1670. Không thể để những người chết vì băng huyết, vài năm sau Denis chế tạo một dung dịch cầm máu và được áp dụng một thời gian trong hải quân Anh.
Cuối thế kỷ thứ XVIII người ta trở lại sử dụng sự truyền máu nhưng mãi đến đầu thế kỷ thứ XX người ta mới khám phá ra các nhóm máu
Các nhóm máu:
Karl Landsteiner được giải thưởng Nobel năm 1930 nhờ khảo sát 4 nhóm máu có tính di truyền, gọi là nhóm A, B, AB và O. Nhóm O là nhóm cho được mọi người (universel donor) nhưng chỉ nhận được máu nhóm O mà thôi. Còn người nhóm AB thì nhận được máu của mọi người nhưng chỉ cho được người có nhóm AB mà thôi. Người có nhóm A cho được người có nhóm A hay AB nhưng chỉ nhận được nhóm A hay O. Nhóm B cho những người thuộc nhóm B và AB nhưng chỉ nận được nhóm B và O.
Nhóm A vá O thông thường nhất, chiếm khoảng 85% dân số.
Rhesus
Các nhóm Rhesus cũng rất quan trọng trong sự truyền máu, nhưng chỉ được khám phá từ năm 1940 do Steiner và Wiener.
Khi một người nhóm Rhesus dương cho một người nhóm Rhesus âm, cơ thể ngươi này sẽ tạo ra kháng thể (anticorps, antibodies) có thể gây phản ứng với các tế bào máu
Di truyền của nhóm máu
Nhóm máu của cha, mẹ | Nhóm máu truyền cho con | không truyền cho con |
0 x 0
0 x A A x A 0 x B B x B A x B 0 x AB A x AB B x AB AB x AB |
0
0, A 0, A 0, B 0, B 0, A, B, AB A, B A, B, AB A, B, AB A, B, AB |
A, B, AB
B, AB B, AB A, AB A, AB _ 0, AB 0 0 0 |
Võ Thị Diệu Hằng