04/06/2017, 23:20
Lập dàn bài cho đề văn: Phân tích bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải.
I. Tác giảTrần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, một trong những người có công lớn nhất trong cuộc kháng chiến (lần thứ 2 và thứ 3) đánh thắng giặc Nguyên Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao. Ông có tập thơ "Lại Đạo ", nổi tiếng nhất là bài thơ “Tụng giá ...
I. Tác giảTrần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, một trong những người có công lớn nhất trong cuộc kháng chiến (lần thứ 2 và thứ 3) đánh thắng giặc Nguyên Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao. Ông có tập thơ "Lại Đạo ", nổi tiếng nhất là bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”.
II. Xuất xứ, chủ đề
Tháng 4-1285 Trần Nhật Duật chém đầu Toa Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6 /1285 Trần Quang Khải đại phá giặc Nguyên Mông tại Chương Dương độ, thừa thắng quân ta tiến lên giải phóng Kinh thành Thăng Long. Bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" được viết sau chiến thắng Chương Dương độ.
Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây dựng đất nước thanh bình bền vững muôn đời.
III. Phân tích
Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí sự chiến trường. Vị ngữ "đoạt sáo" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giã Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện hai thế đánh, hai cú đánh liên tiếp gián xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ đời Trần. Chương Dương độ và Hàm Tử quan, hai địa danh, hai chiến công đã được ghi vào sử sách và thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:
"Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan "
Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dào dạt tự hào. Phải là người tham dự, chỉ huy trận đánh mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.
Hai câu cuối, xuất hiện một ý thơ mới. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến thắng giải phóng Kinh thành Thăng Long, trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ đã nghĩ đến nhiệm vụ mới:
"Thái bình lo trí lực,
Vạn cổ thử giang san "
Trước mắt mọi người, từ vua tôi tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài trí, sức lực của cải (trí lực) để xây dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhân quan chính trị của Trần Quang Khải vô cùng sáng suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự mới mẻ đối với chúng ta hiện nay.
Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của học giả Trần Trọng Kim rất đặc sắc.
Tháng 4-1285 Trần Nhật Duật chém đầu Toa Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6 /1285 Trần Quang Khải đại phá giặc Nguyên Mông tại Chương Dương độ, thừa thắng quân ta tiến lên giải phóng Kinh thành Thăng Long. Bài thơ "Tụng giá hoàn kinh sư" được viết sau chiến thắng Chương Dương độ.
Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây dựng đất nước thanh bình bền vững muôn đời.
III. Phân tích
Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí sự chiến trường. Vị ngữ "đoạt sáo" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giã Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện hai thế đánh, hai cú đánh liên tiếp gián xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ đời Trần. Chương Dương độ và Hàm Tử quan, hai địa danh, hai chiến công đã được ghi vào sử sách và thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:
"Đoạt sáo Chương Dương độ,
Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dào dạt tự hào. Phải là người tham dự, chỉ huy trận đánh mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.
Hai câu cuối, xuất hiện một ý thơ mới. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến thắng giải phóng Kinh thành Thăng Long, trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ đã nghĩ đến nhiệm vụ mới:
"Thái bình lo trí lực,
Vạn cổ thử giang san "
Trước mắt mọi người, từ vua tôi tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài trí, sức lực của cải (trí lực) để xây dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhân quan chính trị của Trần Quang Khải vô cùng sáng suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự mới mẻ đối với chúng ta hiện nay.
Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của học giả Trần Trọng Kim rất đặc sắc.