25/05/2018, 13:45

Làn sóng dân chủ

là một khái niệm về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào dân chủ hóa được lan truyền từ một vùng này đến những vùng khác giống như một làn sóng dâng cao thành một cao trào phổ biến. đầu tiên nổi lên ở phía Nam của Châu Âu và sau đó lan nhanh ...

là một khái niệm về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của phong trào dân chủ hóa được lan truyền từ một vùng này đến những vùng khác giống như một làn sóng dâng cao thành một cao trào phổ biến. đầu tiên nổi lên ở phía Nam của Châu Âu và sau đó lan nhanh đến những quốc gia lân cận. Hiện nay nó đã và đang được lan truyền nhanh chóng và mạnh mẽ đến khắp các vùng khác trên thế giới và trở thành một hiện tượng "làn sóng dân chủ hoá" toàn cầu.

(Chú ý: Các số liệu dưới đây được tổng hợp của năm 2005 theo báo cáo của Freedom House)

Nhân loại có thể coi như phong trào này bắt đầu từ bán đảo Iberia, Âu châu, từ 30 năm trước đây. Nước Bồ Đào Nha, sau nhiều năm sống dưới chế độ độc tài của António de Oliveira Salazar (1932-1968) và các tướng lãnh, đã thiết lập một bản hiến pháp mới theo chế độ dân chủ đại nghị vào năm 1976, và hai năm sau Tây Ban Nha cũng theo gót, nhờ nhà độc tài Francisco Franco đã chết từ năm 1975. Từ khi dân chủ hóa, đời sống kinh tế của hai quốc gia này đã tiến triển để theo kịp các nước khác ở Tây Âu.

Một quốc gia được coi là có dân chủ khi quốc gia đó bảo đảm được ba quyền tự do căn bản của người dân, đó là quyền tự do ngôn luận và báo chí, quyền tự do lập hội và quyền tự do ứng cử và bầu cử.

Dân chủ là phương tiện để mang lại sự phồn vinh và tiến bộ cho mọi dân tộc, vì nó giúp duy trì sự phát triển bền vững cho mọi quốc gia, và đây cũng là phương tiện cần thiết cơ bản nhằm giúp các dân tộc trên Trái Đất thoát khỏi sự nghèo nàn và tụt hậu.

Chế độ dân chủ ra đời đầu tiên và đã từ lâu ở Hy Lạp cổ đại và đang đã lan truyền ra khắp thế giới trong suốt ba thập kỉ qua. Ở mọi vùng trên thế giới, chế độ dân chủ nổi đã lên như là một hệ thống chính trị được quần chúng, nhân dân lao động hằng ưa chuộng.

Nước Mỹ, mới chỉ ngoài 200 năm từ khi lập quốc, đã chọn chế độ dân chủ ngay từ đầu, nên họ đã sớm trở thành một siêu cường trên thế giới cả về kinh tế, quân sự, khoa học, kỹ thuật... Cho đến nay nước Mỹ vẫn là quốc gia luôn đi tiên phong trong việc nêu cao các giá trị dân chủ, tự do, cho dù mỗi thời kỳ tổng thống có thể có những ưu tiên chiến lược không giống nhau, nhưng họ vẫn luôn phát động không ngừng phong trào dân chủ hóa trên toàn cầu.

Tổ chức Freedom House (Nhà Tự Do) công bố bản tường trình về tình trạng dân chủ tự do trên thế giới hàng năm, và công bố bảng danh sách phân biệt ba loại chế độ: Tự do, Hơi Tự do và Không Tự do.

Theo Tổ chức Freedom House báo cáo năm 2005, số quốc gia có bầu cử tự do đã tăng lên thành 122 nước, so với năm 2004 chỉ có 119 nước. Ba nước mới được lên bảng đều ở Phi châu, là Burundi, Liberia và Cộng hoà Trung Phi. Tuy Cộng hòa Trung Phi đã trở lại với một hiến pháp dân chủ từ năm 1979 nhưng đến năm 2005 mới được vô bảng vì họ chứng tỏ có bầu cử tự do thật và chấp nhận các hoạt động chính trị đối lập.

Có 89 quốc gia được coi là có tự do thật, người dân trong các nước đó có đủ các quyền tự do dân sự, tự do chính trị.

Có 58 nước được xếp hạng "hơi tự do", trong đó điển hình như Trung Quốc đều thuộc loại thứ ba, thiếu tự do. Đứng cuối sổ là Cuba,hay Bắc Hàn và Myanmar.

Freedom House nâng điểm hai nước, Indonesia và Ukraina, từ "hơi tự do" lên "tự do" nhờ các cuộc bầu cử tự do và hoạt động của báo chí, đảng đối lập mạnh hơn trước. Một nước ở Á châu đã bị xuống điểm là Philippines, từ "tự do" xuống "hơi tự do".

Nói chung, thế giới vẫn tiến bước trên con đường dân chủ hóa. Từ những năm cuối thế kỷ 20 đến nay, có rất nhiều quốc gia đã chuyển từ chế độ độc tài sang lối sống dân chủ, giống như một cơn sóng tự do lan tràn trên mặt Trái Đất.

Có thể coi như phong trào này bắt đầu từ bán đảo Iberia, Âu châu, từ 30 năm trước đây. Nước Bồ Đào Nha, sau nhiều năm sống dưới chế độ độc tài của Antonio Salazar (1932-1968) và các tướng lãnh, đã thiết lập một bản hiến pháp mới theo chế độ dân chủ đại nghị vào năm 1976, và hai năm sau Tây Ban Nha cũng theo gót. Từ khi dân chủ hóa, đời sống kinh tế hai quốc gia này đã tiến triển để theo kịp các nước khác ở Tây Âu.

Những năm sau đó, loài người đã chứng kiến luồng sóng dân chủ tự do tràn qua các nước cộng sản Đông Âu, Châu mỹ La tinh, và cơn sóng càng lên mạnh hơn trong số các nước phía Đông châu Á, nơi người dân đấu tranh cho dân chủ liên tục từ thập niên 1960. Trong ba chục năm qua, làn sóng dân chủ tự do đã lên, hiện nay 43 phần trăm nhân loại đang được sống trong tự do dân chủ đầy đủ, và 30 phần trăm hơi tự do dân chủ.

Theo nhiều nhà nghiên cứu, trong lịch sử thế giới đã từng có nhiều cơn sóng dân chủ tự do nổi lên rồi bị đẩy lùi, và lần này là lần thứ ba đang lên mạnh mẽ và hy vọng sẽ không bị lùi bước trở lại.

Cơn sóng dân chủ đầu tiên diễn ra vào cuối thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 ở Âu châu và Mỹ châu. Đợt sóng này lan ra rất chậm, bắt đầu từ những cuộc cách mạng ở Hoa Kỳ, ở Pháp, dần dần tới những nước Âu châu khác. Cơn sóng dân chủ đó đã gặp phải nhiều tảng đá ngầm cản trở, đôi lúc phải dội lại và thoái trào. Có những quốc gia đã trở thành dân chủ nhưng rồi lại bị thụt lùi trở lại chế độ quân chủ hoặc đế quốc, như ở Pháp, Ý, Đức, v.v. Điều này chứng tỏ việc thiết lập thể chế dân chủ hình thức, bằng cách thông qua một bản hiến pháp dân chủ, không đủ để bảo đảm cho người dân được sống trong tự do thật sự và lâu bền.

Đợt sóng dân chủ tự do thứ nhì lan ra trên thế giới sau cuộc Thế chiến thứ nhất vào đầu thế kỷ 20, kéo dài cho tới một phần ba thế kỷ. Một khẩu hiệu đầu tiên được nêu lên là đòi hỏi quyền tự quyết dân tộc. Những nước mới giành được độc lập sau các cuộc thế chiến đã quyết định thiết lập thể chế dân chủ, tự do. Đợt sóng dân chủ tự do thứ nhì cũng gặp những chướng ngại và thoái trào. Những quốc gia như Đức, Ý, có lúc đã quay trở lại chế độ độc tài đảng trị, và ở Nga thì cuộc cách mạng dân chủ chưa được một năm đã rơi vào nội chiến để tiến tới một thể chế độc tài kéo dài hơn 70 năm, với một đảng duy nhất cai trị, trong thực tế là chỉ có một nhóm hay một người thao túng.

Sau Thế chiến thứ hai, nhiều nước cựu thuộc địa đã giành được cũng thiết lập các chế độ dân chủ. Tuy nhiên, sau đó thế giới bước ngay vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh khiến cho trong cả hai khối tư bản và khối cộng sản người ta có khuynh hướng duy trì các chế độ độc tài để dễ đối phó với khối bên kia. Những nước đứng giáp đường giới tuyến của hai khối càng khó thay đổi vì bị gây nội chiến hoặc chia rẽ. Bên khối tư bản, các nước như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan, Philippines, Indonesia, v.v., khó tiến nhanh trên đường dân chủ hóa vì họ bị họa đe dọa trực tiếp với những phong trào nổi dậy ngay ở trong nước họ. Các chính quyền độc đoán viện lý là cơn sóng dân chủ (đầu tiên) có thể làm ảnh hưởng sự an ninh chung. Nên dựa trên lý do vì sự an ninh mà họ đã làm kìm hãm sự phát triển của các quyền tự do chính trị và tự do dân sự.

Giữa thập niên 1970, làn sóng thứ ba của quá trình dân chủ hóa lần đầu tiên diễn ra ở Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Ban Nha, nơi chế độ độc tài cánh hữu nắm giữ chính quyền trong vài thập kỷ; năm 1974 biến đổi dân chủ lại diễn ra ở Hy Lạp. Từ năm 1979 đến năm 1985, Argentina, Bolivia, Brasil, Ecuador, Peru và Uruguay đã trải qua sự thành công trong quá trình biến đổi sang chế độ dân chủ từ quyền lực quân đội. ở Chile, sự biến đổi dân chủ đã tiến hành chậm hơn và nổi lên vào năm 1989 sau nhiều năm đấu tranh của chế độ hoà bình chống lại quyền lực độc đoán. Vào tháng 6 năm 2000, thắng lợi của tổng thống Vincente Fox ở Mexico, đất nước nói tiếng Tây Ban Nha đông dân nhất thế giới, đã đánh dấu sự kết thúc bảy thập kỉ của quyền lực một đảng và đánh dấu một kỉ nguyên mới của chế độ dân chủ trong vùng.

Cơn sóng dân chủ tự do thứ ba trong lịch sử chỉ khởi sự trào lên khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu bớt căng thẳng. Lúc đầu là Liên Xô và Mỹ thương thuyết chính sách hòa dịu, giảm bớt vũ khí hạt nhân. Thế giới chung quanh dần dần cảm thấy bớt bị đe dọa nên nhu cầu thay đổi chính trị cũng không ngừng dâng lên trong hàng chục năm.

Ở Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, dân chúng, nhất là giới sinh viên, thanh niên đã từng đấu tranh quyết liệt đòi dân chủ từ thập niên 1970, nhưng họ cũng chỉ bắt đầu được hưởng tự do từ giữa thập niên 1970, trong khi nhiều quốc gia khác phải đợi cho tới khi gặp khủng hoảng kinh tế mới thật sự bước vào quá trình dân chủ hóa.

Ở Trung Âu và Đông Âu trong thập niên 1980, đó là tình hình kinh tế trì trệ trong khối Xô Viết vì quản lý không hiệu quả. Phong trào Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, các nhà trí thức đòi phát triển xã hội công dân ở Tiệp Khắc, người dân Đông Đức và Hungary cũng đứng dậy, đưa tới sự sụp đổ của bức tường Berlin.

Ở Á Đông, những cải thiện chính trị đã bắt đầu và cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã thực sự thúc đẩy thêm cho tiến trình dân chủ hóa những bước phát triển nhanh chóng và vững vàng.

hóa thứ ba này đi đôi với hiện tượng kinh tế toàn cầu đã hội nhập toàn cầu với nhau ngày càng chặt chẽ hơn, đưa tới việc cải thiện mức sống và giảm bớt nạn nghèo đói trên thế giới. Một thước đo của sự cải thiện này là tỷ lệ những người còn sống với lợi tức dưới 2 đô la Mỹ một ngày.

Vào năm 1980 trên thế giới có 56 phần trăm nhân loại còn sống trong cảnh nghèo như vậy, đến năm 2000 tỷ số đó chỉ còn 23 phần trăm. Vì dân số trên Trái Đất luôn luôn gia tăng nên sự cải thiện trên là rất đáng kể. Vào năm 1980 thế giới có 1.9 tỷ người sống trong cảnh nghèo.

Vào năm 1990 chỉ còn 1 tỷ 7, đến năm 2000 chỉ còn một tỷ mốt. Một điều đáng chú ý nữa là trước năm 1980, trước khi làn sóng dân chủ lan tràn, số người sống trong cảnh nghèo theo định nghĩa trên chỉ tăng thêm chứ không giảm. Sự cải thiện trong đời sống kinh tế đi đôi với phong trào dân chủ hóa cho thấy khi người dân được tự do hơn, trong đó được hưởng những quyền tự do kinh tế, thì loài người cũng được no ấm và hạnh phúc nhiều hơn.

Từ năm 1980, theo báo cáo của Ủy hội Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, có 81 quốc gia đã tiến bước trên đường dân chủ hóa đáng kể, trong đó có 33 nước đổi từ chế độ quân phiệt sang chế độ dân chủ.

Cơn sóng dân chủ hóa thứ ba cũng gặp những trở ngại, có lúc quay ngược chiều và không lan rộng đồng đều. Có những quốc gia đã thiết lập thể chế dân chủ sau đó lại rơi xuống, trở về sống dưới một chính quyền độc tài, như ở Peru, Pakistan. Điều này cho thấy những điều kiện thúc đẩy một quốc gia tiến tới chế độ dân chủ khác với những điều kiện để nuôi dưỡng cho chế độ dân chủ được vững bền. cũng bị ngăn lại ở nhiều nơi không vào được.

Ở Á Đông thì còn bốn nước vẫn chưa có tự do tuyển cử. Lại có những quốc gia thiết lập một chế độ dân chủ hình thức nhưng người dân vẫn chưa được tự do, như ở nhiều nước Trung Á khác. Tuy cơn sóng dân chủ hóa thứ ba cũng gặp một số trở ngại, nhưng đây cũng không phải là một trở ngại lớn vì những trở ngại này cũng chỉ nhất thời trước một thời kỳ quá độ mà thôi.

Tuy nhiên bên cạnh những trở ngại nhỏ này, vẫn có nhiều điều kiện thuận lợi khách quan khác từ sự hội nhập kinh tế toàn cầu, nên cơn sóng dân chủ hóa thứ ba sẽ sớm đạt được nhiều thành công tốt đẹp, đây cũng là một xu hướng phát triển tất yếu trong lịch sử phát triển cao độ của nhân loại vốn yêu sự tự do vốn đậm tính nhân bản.

Một đất nước được coi là đã được dân chủ hóa, là đất nước đó đã bảo đảm được 3 quyền tự do căn bản của người dân, đó là quyền tự do ngôn luận và báo chí, quyền tự do lập hội và quyền tự do ứng cử và bầu cử.

Khi một quốc gia nào được chuyển sang từ hơi Tự do thành một nền tự do hoá và dân chủ thực sự thì nơi ấy quyền tự do của con người đã được mọi người tôn trọng lẫn nhau thực sự theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã được tuyên bố, và nơi ấy sẽ có cơ hội phát triển bền vững. Một quốc gia được định hướng phát triển bền vững thì nhân dân của quốc gia đó sẽ hưởng được một đời sống kinh tế ấm no, đời sống vật chất, đời sống tinh thần sẽ được phong phú hơn, nhân dân sẽ hạnh phúc thực sự bền vững hơn.

Một quốc gia đã được đạt được một nền dân chủ cũng có ý nghĩa là sẽ giúp nhân dân họ dễ hoà nhập tốt và hài hoà với một cộng đồng thế giới đương đại vậy.

0