KINH TẾ HỌC CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG-PHẦN 5
Trong nền kinh tế thị trường, khi không có thất bại thị trường, bàn tay vô hình của việc cạnh tranh sẽ hướng các nguồn tài nguyên vào việc sử dụng hữu hiệu nhất-và các cá nhân theo đuổi lợi ích sẽ định vị các nguồn tài nguyên dó về mặt xã ...
Trong nền kinh tế thị trường, khi không có thất bại thị trường, bàn tay vô hình của việc cạnh tranh sẽ hướng các nguồn tài nguyên vào việc sử dụng hữu hiệu nhất-và các cá nhân theo đuổi lợi ích sẽ định vị các nguồn tài nguyên dó về mặt xã hội. Nói cách khác, nền kinh tế tư nhân mang lại hiệu quả về mặt xã hội.
Song chúng ta không sống trong một thế giới hoàn hảo. Các thất bại trong nghiên cứu và thị trường luôn tồn tại quanh chúng ta. Ta thấy xuất hiện những cuộc cạnh tranh không hoàn hảo, những thông tin sai lệch; và điều cốt yếu của vấn đề này là các mối quan hệ ngoại ứng tồn tại ở những nơi hoạt động của hãng này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến các hãng khác trong nền kinh tế.
Luận cứ bàn tay vô hình phân chia thế giới với những mối quan hệ ngoại ứng. Vì sao? Các hãng theo đuổi lợi ích không thừa nhận các chi phí hay lợi ích mà hoạt động của họ mang lại cho các hãng khác. Rút cục, giá trị cá nhân tách rời khỏi giá trị xã hội và tính cân bằng của thị trường tư nhân không còn hiệu quả về mặt xã hội.
Chúng ta hãy xem xét lại. Bàn tay vô hình hoạt động khi nào?
Bàn tay vô hình hoạt động khi quyển sở hữu cá nhân được xác định rõ ràng.
Quyền sở hữu cho phép một cá nhân được sử dụng tài sản khi họ thấy tài sản đó thích hợp với mình; đồng thời họ có quyền bán lại tài sản đó. Quyền sở hữu khuyến khích các cá nhân sử dụng tài sản dưới sự kiểm soát của chính họ một cách hữu hiêụ; người sở hữu sẽ quyết định việc sử dụng có lợi nhất của nguồn tài nguyên vì anh ta có thể giữ lại hay trích lại một phần lợi nhuận kiếm được từ nguồn tài nguyên đó. Vì vậy, động cơ kiếm được lợi nhuận kết hợp với quyền tư hữu sẽ khuyến khích các cá nhân sử dụng nguồn tài nguyên một cách hiệu quả.
Nếu một nguồn tài nguyên không thuộc sở hữu cá nhân thì khi đó bàn tay vô hình không còn tác dụng. Tại sao? Thị trường cạnh tranh không hề khuyến khích việc sử dụng hay quản lý những nguồn tài nguyên đó một cách hiệu quả - việc thiếu đi quyền sở hữu làm giảm động cơ muốn kiếm lợi nhuận vì không một cá nhân sử dụng nào có thể quản lý được nguồn tài nguyên để tối đa hoá và để trích lại lợi nhuận từ nguồn tài nguyên đó. Ví dụ rõ ràng nhất chứng minh những hậu quả tiêu cực do thiếu sự sở hữu cá nhân chính là việc sử dụng sai mục đích và làm dụng môi trường, cái mà không có cá nhân nào sở hữu.
Một trong những giải thích rõ ràng nhất đối với những vấn đề môi trường chính là thiếu sự xác định rõ ràng về luật bản quyền đối với môi trường. Chính lý do đó đã dẫn đến thiếu sự bảo hộ hay quản lý một cách có hiệu quả đối với nguồn tài nguyên môi trường.
Chúng ta không cần phải khẳng định rằng quyền sở hữu sẽ giải quyết mọi vấn đề về môi trường. Trong những phần sau, khi chúng ta nghiên cứu các giải pháp cho thị trường tư nhân, chúng ta sẽ kiểm nghiệm xem liệu việc ký kết luật bản quyền có thể giải quyết các vấn đề môi trường hay không. Chúng ta sẽ biết được nhiều tài nguyên môi trường không phù hợp với quyền sở hữu cá nhân và điều đó có thể dẫn đến sự thất bại của những cuộc đàm phán cá nhân về việc sử dụng nguồn tài nguyên.
Một trong những lý do khiến nguồn tài nguyên môi trường không phù hợp với sở hữu cá nhân là vì nó thể hiện là một tài sản không thể loại trừ: việc loại bỏ con người ta khỏi nguồn tài nguyên môi trường hay khi ngăn chặn con người không được tận dụng nguồn tài nguyên môi trường, là điều không thể có khi xét về mặt vật chất, đồng thời cũng là không hiện thực khi xét về mặt kinh tế.
Một điều tất nhiên là rất nhiều người có thể sử dụng nguồn tài nguyên môi trường - đó chính là tài nguyên sở hữu chung.
Định nghĩa: Tài nguyên sở hữu chung là nguồn tài nguyên không phải do đơn lẻ cá nhân hay công ty nào kiểm soát. Nếu việc sử dụng những tài nguyên này không bị hạn chế sẽ dẫn đến việc chúng bị khai thác quá mức bởi những người đến trước chiếm dụng.
Nguồn tài nguyên sở hữu chung là một ví dụ cổ điển về việc tính không thể loại trừ của tài nguyên môi trường có thể có tác dụng như thế nào trong việc tạo ra chi phí ngoại ứng. Khó khăn của việc sử dụng chung đã tạo nên việc mỗi người sử dụng có thể can thiệp vào người khác, làm giảm khả năng phục vụ của nguồn tài nguyên đối với mỗi người sử dụng. Chúng ta cần phải lý giải tại sao con người lại có ít động cơ đế xử sự theo cách cả xã hội mong muốn đối với nguồn tài nguyên sở hữu chung.
Những ví dụ về tài nguyên sở hữu chung bao gồm đáy biển đầy cá của đại dương; những kho dầu hay nguồn nước dưới lòng đất, việc sử dụng không khí và nguồn nước làm chỗ thải các sản phẩm, những cánh rừng nhiệt đới nhiều mưa ở các nước đang phát triển, những con chim di cư, những động vật hoang dã, v.v…
Chúng ta sẽ xem xét những vấn đề liên quan đến nguồn tài nguyên môi trường thuộc sở hữu chung.
Cá có lẽ không phải là ý nghĩ đầu tiên về nguồn tài nguyên môi trường nảy sinh khi chúng ta nghĩ đến những vấn đề đáng lưu ý của môi trường. Tuy nhiên, cá là một nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh, nhưng chúng cũng có thể bị cạn kiệt và thay đổi môi trường do việc khai thác thiếu kiểm soát hiện nay đang đe doạ nguồn cá của thế giới.
Hầu như mỗi một cửa sông và mỗi vịnh trên thế giới đều bị đe doạ bởi những ngoại ứng từ hoạt động kinh tế của con người. Các con sông mang ô nhiễm ra các cửa sông, sự loang dầu và hoá chất làm ảnh hưởng đến sinh thái, việc dùng nước trên thượng nguồn làm ảnh hưởng tới hạ lưu và đại dương v.v… Nhưng sự đe doạ lớn nhất đối với nguồn cá chính là việc đánh bắt bừa bãi và khai thác tràn lan của hoạt động kinh tế.
Công nghệ đánh bắt cá hiện đại, đi kèm với nhu cầu ngày càng gia tăng của con người, thêm vào đó việc tự do đánh bắt đã dẫn đến nhiều nguồn cá giảm xuống mức thấp. Một số loài cá có nguy cơ tuyệt chủng. Ví dụ: loài cá mũi dài và to ở Vùng Vịnh, cá mũi kiếm, cá ngừ đã giảm một cách đáng kể trong vài thập kỷ trở lại đây. Viện Tài nguyên học Thế giới đã thông báo một công trình nghiên cứu vào năm 1993, chỉ ra rằng 30% loài cá hiện nay đang bị giảm (có nghĩa là tỷ lệ đánh bắt cao hơn nhiều so với tỷ lệ tái sinh tự nhiên của những loài này).
Sở dĩ nguồn cá có vai trò quan trọng với chúng ta bởi những lý do cơ bản:
- Cá là nguồn cung cấp đạm chủ yếu cho một tỷ lệ lớn dân cư trên thế giới;
- Cá cũng là một phần quan trọng của nguồn thức ăn trong bản thân hệ sinh thái (ví dụ trong bài Globe và Mail – loài cá Pecca màu da cam bị đe doạ là nguồn thức ăn chính của những loài mực khổng lồ và những loài cá nhà táng). Việc đánh bắt cá vì mục đích thương mại là nguồn gốc chủ yếu cung cấp việc làm cũng như thu nhập. Còn việc câu cá có tính chất tiêu khiển, giải trí là nguồn lợi trực tiếp của ngành dịch vụ du lịch và giải trí.
Để hiểu rõ hơn bản chất kinh tế của nguồn tài nguyên sỡ hữu chung, chúng ta sẽ nghiên cứu một mô hình kinh tế trong việc tái tạo lại nguồn tài nguyên, sử dụng ví dụ nghề đánh bắt cá ở Đại dương là ví dụ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của vấn đề đánh bắt tự do, dẫn đến việc khai thác tràn lan nguồn tài nguyên này.
Giả sử chúng ta xem xét một bãi đánh bắt cá với diện tích 200 dặm xa bờ là một tài nguyên sở hữu chung. Các quốc gia được quyền tự do khai thác ở địa phận đánh bắt này. Vậy điều gì sẽ xảy ra đối với nguồn cá này? Tại sao? Và phản ứng của các chính phủ trên thế giới sẽ như thế nào đối với vấn đề này?
Chúng ta hãy xem xét mô hình kinh tế của một khu vực có cá để tìm ra lời giải thích cho việc khai thác vượt quá mức cho phép.
Giả sử rằng chúng ta đang có một số lượng cá nhất định. Gọi Q là số các tàu đánh cá hiện đang có mặt ở khu vực này. Số lượng cá (tính bằng tấn) của số cá đánh được, ta gọi là y, là hàm của số các con tàu đánh cá ở đây: y = f(Q), với f(Q) là hàm sản xuất.
Rõ ràng việc đánh cá yêu cầu các đầu vào khác như lao động và thiết bị đánh bắt. Để đơn giản, chung ta sẽ cho tất cả các biến đầu vào thành một biến và coi đó là “những chiếc tàu đánh bắt”

Hàm sản xuất thể hiện quy luật lợi tức giảm dần (do diện tích ngư trường cố định)- vì khi lượng tàu tăng lên thì tổng số lượng cá đánh bắt tăng, nhưng tỷ lệ cá của mỗi tàu thì lại giảm, đó là do ảnh hưởng của số tàu tăng lên. Và kết quả là khi số lượng tàu tăng lên, lượng cá đánh bắt trung bình trong một đợt hay còn gọi là sản lượng của mỗi tàu (f(Q)/Q) sẽ giảm, giống như các mẻ hay sản phẩm cận biên, f’(Q). Lưu ý rằng sản lượng cận biên giảm xuống ở một tỷ lệ nhanh hơn sản lượng bình quân.
Chúng ta hãy lưu ý rằng mẻ cá trung bình của một ngư dân không chỉ phụ thuộc vào số lượng tàu đánh bắt mà một ngư dân tăng lên mà còn phụ thuộc vào số tàu của những ngư dân khác. Khi số lượng tàu đánh bắt càng lên cao, số cá bình quân một mẻ của mỗi ngư dân lại ít dần đi. Thực tế, khu vực đánh bắt sẽ đông đến mức mỗi mẻ cá bình quân của mỗi ngư dân sẽ còn rất nhỏ.
Giả định rằng chi phí cận biên của lượng cá trên số tàu, ký hiệu là MC, là cố định và bằng c và giả định giá một tấn cá là p.
Chúng ta có thể minh hoạ bằng đồ thị giá trị kinh tế của (tổng thu nhập thu được) từ việc đánh bắt cá là hàm số lượng tàu đánh bắt trong vùng bằng cách nhân số cá đánh bắt được với giá trên thị trường: TR(Q) = py = pf(Q). Cộng thêm tổng chi phí đánh bắt, ta có TC(Q) = cq. Đồ thị đường thu nhập cận biên ký hiệu là MR(Q), và chi phí cận biên MC được biểu thị bằng cách phân biệt tất cả các đường cong với đồ thị của thu nhập bình quân AR(Q) tương tự đường biểu thị pf(Q)/Q.

Đường đồ thị MR biểu thị thu nhập phụ thêm một thuyền đánh cá trong khu vực. Đường đồ thị AR biểu thị giá trị trung bình của mẻ cá đánh bắt trên mỗi tàu: AR = pf(Q)/Q = AP. Một lần nữa ta phải chú ý rằng AR vượt ra ngoài MR.
Nếu như trường hợp ngư trường do một cá nhân đơn lẻ sở hữu, thì cá nhân đó có thể giữ lại lãi suất thu được từ ngư trường đó. Chủ sở hữu được khuyến khích để tối đa hoá lợi nhuận (lợi ích kinh tế ròng) từ ngư trường. Lợi nhuận được tính bằng sự chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí:
(Q) = py – cQ = pf(Q) – cQ
Vậy chủ sở hữu sẽ quyết định cho bao nhiêu tàu vào đánh bắt tại ngư trường? Hay nói cách khác, quy luật quyết định cá nhân mang tính hiệu quả của người chủ sở hữu ngư trường là gì?
Chủ sở hữu sẽ chọn ra một số tàu đưa vào ngư trường làm sao để tối đa hoá được lợi ích kinh tế ròng hay còn gọi là lợi nhuận. Để đạt được mục đích này, chủ sở hữu phải chọn ra những con tàu làm sao để lợi ích cận biên của việc đưa con tàu cuối cùng ra cân bằng với chi phí cận biên.
Vậy lợi ích của việc đưa thêm một con tàu nữa là gì? Đơn giản đó chỉ là doanh thu cận biên hay phụ thu lấy được con tàu cuối cùng.
Vì thế người ta sẽ chỉ đưa vào ngư trường thêm tàu đánh bắt khi gía trị thu thêm được của một tàu đối với toàn bộ số tàu đánh bắt (MR) cân bằng với chi phí cơ hội của việc đưa ra thêm con tàu đó (MC). Ta có:
Q*: MR = MC
Về mặt hình thức, quy luật quyết định của chủ sở hữu được hiểu là cách phân biệt hàm lợi nhuận và đặt điều khoản đặt hàng ban đầu bằng 0.
max (n) = TR – TC = p*f(Q) – cQ
n
Điều khoản đặt hàng ban đầu hay quy luật quyết định đối với chủ sở hữu là
Q*:p*f’(Q) – c = 0
mà đơn giản là:
Q*:MR=MC
Hãy giả định rằng:
MC = c = $150
p = $1
TP = f(Q) = 300Q – 25Q2
Vì thế,
MP = f’(Q) = 300 – 50Q
AP = f’(Q)/Q = 300 – 25Q
Các sản lượng thay thế,
1 * (300 – 50Q) = 150
50Q = 150
Q* = 3
Q* được biểu diễn trên đồ thị
Lợi ích ròng thu được từ việc đưa Q* số tàu đánh cá ra khơi là gì? Lợi ích ròng là:
NB(Q*) = TB(Q*) – TC(Q*)
Tổng lợi ích là phần nằm dưới đường giá trị trung bình (giá trị đánh bắt trung bình) ở phía trái của đường đồ thị. Tổng chi phí là phần nằm dưới đường chi phí cận biên, cũng ở phía bên trái của đồ thị. Phần chênh lệch giữa hai phần này chính là lợi ích ròng (phần gạch chéo)

Thuật ngữ kỹ thuật dùng cho lợi ích ròng thu được từ một nguồn tài nguyên nào đó được gọi là khan hiếm hay thuê mướn tài nguyên.
Thuê mướn khan hiếm được tính bằng:
Thuê mướn khan hiếm = (Q) = Q*[AR(Q) – MC(Q)]
Lưu ý rằng chỉ có tại điểm Q*, ta mới có thể xác định thuê mướn khan hiếm là:
Thuê mướn khan hiếm = (Q) = Q*[AR(Q*) – MC(Q*)]
vì MR(Q*) = MC(Q*)
Giả định rằng nếu ngư trường là tài sản chung, thì khi đó quyền sở hữu không được phân định rõ ràng. Nếu quyền sở hữu không được phân định, thì ngư trường thuộc về tất cả mọi người và bất kỳ ai cũng có thể vào trong địa phận này đánh bắt cá.
Vậy, một ngư dân đơn lẻ sẽ quyết định đưa bao nhiêu tàu đánh bắt cá vào ngư trường?
Một ngư dân đơn lẻ sẽ tiếp tục đưa thêm các tàu vào ngư trường cho đến khi anh ta có thể trang trải được hết chi phí, có nghĩa là đến điểm hoà vốn. Vì vậy, ngư dân này sẽ còn đưa thêm tàu đánh bắt cá của mình ra miễn là lợi nhuận bình quân của một tàu, (Q)/Q = (Q) không âm, nghĩa là:
(Q)/Q = (Q) ≥0
Mọi người sẽ tiếp tục vào ngư trường chừng nào có thể kiếm được lợi nhuận. Ngược lại, việc tham gia đánh bắt sẽ giảm khi đánh bắt cá không còn mang lại lợi nhuận cho họ.
Như thế, ta sẽ quyết định cho bao nhiêu tàu vào ngư trường khi ngư trường là tài sản sở hữu chung? Việc tham gia đánh bắt sẽ còn tiếp tục cho tới khi lợi nhuận thu được từ đánh bắt bằng 0:
Qp: (Q) = 0
(Q) = p*f(Q) – cQ = 0
pf(Q)/Q= C
Hoặc
Qp:AR = MC
Thay phương trình ta có:
300 – 25Qp = 150
Qp = 6
Qp được biểu diễn trên biểu đồ hình 2.2
1. Khi một nguồn tài nguyên được quản lý để tối đa hoá lợi ích kinh tế thì thuế khan hiếm hay còn được gọi là thuế tài nguyên của nguồn tài nguyên đó sẽ tăng.
2. Khi một nguồn tài nguyên không được quản lý, thì quyền sở dụng tự do sẽ dẫn tới việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên đó. Quá nhiều tàu đánh bắt trên cùng một địa phận ngư trường sở hữu chung sẽ dẫn đến giá trị Qp > Q*.
3. Việc khác thác quá mức tài nguyên sở hữu chung sẽ dẫn tới việc tiêu hao thuế khan hiếm. Việc gia nhập vào ngư trường sẽ còn tiếp diễn cho đến khi lợi nhuận giảm tới mức bằng 0, vì vậy thuế khan hiếm sẽ không còn.
Như chúng ta đã thấy tác hại của việc thiếu quyền sở hữu có thể dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên môi trường trong nền kinh tế thị trường. Nguyên nhân tiếp theo cần xem xét tại sao các thị trường tư nhân không phân bổ hiệu quả nguồn tài nguyên môi trường, nguyên nhân cơ bản là nguồn tài nguyên môi trường có đặc tính không loại trừ.
Các nhà kinh tế học đã xây dựng lý thuyết về hàng hoá công cộng và hệ quả của nó để phân tích các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế mà nó tạo ra lợi ích và/hoặc chi phí bên ngoài và thể hiện tính chất không loại trừ.
Để hiểu rõ bản chất của vấn đề, chúng ta cần phân biệt sự khác nhau giữa hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng.
Hàng hoá cá nhân khác với hàng hoá công cộng.
Làm thế nào chúng ta có thể phân biệt hàng hoá công cộng và hàng hoá cá nhân?
- Hàng hoá cá nhân (bánh mỳ) có 2 tính chất sau:
+ Chuyên hữu (riêng biệt): thứ hàng hoá đó sẽ là của riêng bạn nếu một khi bạn đã mua nó và sau đó thì không ai ngoài bạn có quyền tiêu dùng nó.
+ Kình địch (cạnh tranh): Thứ hàng hoá đó bị cạnh tranh trong tiêu dùng, ví dụ có một ai đó mua 1 ổ bánh mỳ và tiêu dùng nó và thế là bạn đã bị đẩy ra khỏi phạm vi có thể tiêu dùng cũng chính ổ bánh mỳ ấy. Hàng hoá cạnh tranh là loại hàng hoá bị suy kiệt. Hệ quả kỹ thuật của tính chất cạnh tranh hay tính suy kiệt được thể hiện ở chỗ cứ tiêu dùng thêm một số hàng hoá cạnh tranh sẽ phải tốn một số chi phí sản xuất cận biên.
- Trái lại, hàng hoá công cộng (khí quyển, quốc phòng, đại dương…) thể hiện 2 tính chất sau:
+ Phi chuyên hữu (không riêng biệt): hàng hoá được coi là không riêng biệt nếu không có ai bị loại ra khỏi phạm vi hưởng lợi của thứ hàng hoá đó, hay tiêu dùng thứ hàng hoá đó một khi nó đã được sản xuất ra. Tính chất không riêng biệt được thể hiện ở chỗ nó có thể sử dụng hàng hoá mà không phải trả tiền trực tiếp.
+ Phi kình địch (không cạnh tranh): Sự tiêu dùng hàng hoá của 1 người không làm giảm bớt số lượng hay chất lượng hàng hoá có sẵn đối với những người khác. Hàng hoá phi cạnh tranh được gọi là hàng hoá không suy kiệt.
Ví dụ về tín hiệu đài – một khi đài phát thanh phát đi tín hiệu, bất kỳ ai có máy thu đều có thể bắt được. Bất kỳ cá nhân nào cũng có thể nghe được chương trình phát thanh mà không làm giảm đi sự sẵn có của nó đối với những người khác nghe chương trình phát thanh đó. Hay nói cách khác, thêm một người nghe chương trình phát thanh không cần sử dụng thêm một nguồn chi phí nào và cũng không làm giảm mức tiêu dùng chương trình phát thanh của những người khác. Các phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng chi phí xã hội cận biên để sản xuất thêm một người nghe chương trình phát thanh là bằng 0.
Bởi vậy, chúng ta có định nghĩa sau:
Hàng hoá phi kình địch nếu ở bất kỳ mức sản xuất nào đưa ra, chi phí cận biên của việc cung cấp nó cho thêm một đơn vị người tiêu dùng bằng 0 (MC = 0).
Tất cả hàng hoá công cộng đều có tính chất phi chuyên hữu nhưng không có nghĩa là đều có tính chất phi kình địch.
Hàng hoá công cộng có tính phi kình địch được gọi là hàng hoá công cộng thuần tuý, ví dụ đa dạng sinh học.
Hàng hoá công cộng có tính chất phi kình địch được gọi là hàng hoá công cộng không thuần tuý, ví dụ: đánh cá, chiều cầu qua lại
Phân tích kinh tế và quản lý thực tiễn hàng hoá công cộng phụ thuộc vào vấn đề thứ hàng hoá công cộng đó là thuần tuý hay không thuần tuý.
Hàng hoá công cộng
Thuần tuý | Không thuần tuý |
- Phi chuyên hữu | - Phi chuyên hữu |
- Phi kình địch: những người sử dụng không can thiệp lẫn nhau mà cũng không làm tăng hiệu quả sử dụng hàng hoá đó đối với mỗi người | - Kình địch: Những người sử dụng gây ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng hàng hoá của nhau |
- Vấn đề tự do khai thác | - Sự can thiệp lẫn nhau của những người sử dụng là ví dụ của những ngoại ứng tiêu cực |
- Các ví dụ về ngắm phong cảnh và tầng ô-zôn | - Vấn đề tự do tiếp cận |
- Các ví dụ về lái xe trên đường cao tốc và đánh cá ngoài biển |
Xây dựng tập hợp đường cầu cho hàng hoá công cộng và tư nhân:
3.2.1. Hàng hoá tư nhân:
Hàng hoá tư nhân khác với hàng hoá công cộng ở chỗ nó có tính cạnh tranh cao và tính loại trừ người khác ra khỏi việc tiêu dùng thứ hàng hoá đó.
Đường cầu của một cá nhân cho hàng hoá tư nhân trả lời cho câu hỏi sau:
Ở một mức giá cho trước các cá nhân (người tiêu dùng) sẵn sàng mua bao nhiêu?
Để xây dựng tập hợp đường cầu hay hàm lợi ích cận biên cho hàng hoá tư nhân, chúng ta phải tìm ra tổng hàng hoá mà người tiêu dùng có nhu cầu ở các mức giá khác nhau. Để làm được điều đó, chúng ta tập hợp hay tổng hợp số lượng hàng hoá mà mỗi cá nhân có nhu cầu ở mức giá cho trước.
Bởi vậy tập hợp đường cầu của hàng hoá tư nhân được hình thành từ tổng các đường nằm ngang của các đường cầu cá nhân.
Ví dụ, ở mức giá 50$/1đơn vị sản phẩm, cá nhân A có nhu cầu là 100 đơn vị sản phẩm hàng hoá trong khi đó cá nhân B có nhu cầu là 150 đơn vị sản phẩm, bởi vậy tổng cầu hay tổng lợi ích xã hội cận biên đo được ở mức giá 50$/1 đơn vị sản phẩm sẽ là 100+150=250 đơn vị sản phẩm.

Chúng ta có thể tiếp tục bài tập này và tìm ra tổng sản phẩm có nhu cầu ở mỗi mức giá khác nhau. Tập hợp đường cầu của hàng hoá tư nhân là quỹ tích của các cặp giá - số lượng này.
- Hàng hoá công cộng:
Hàng hoá công cộng khác hàng hoá tư nhân ở chỗ các cá nhân (người tiêu dùng) không thể bị loại trừ ra khỏi phạm vi tiêu dùng hàng hoá đó và nó có thể không cạnh tranh.
Cầu của cá nhân hay đường cầu lợi ích cận biên cá nhân của hàng hoá công cộng trả lời câu hỏi rất
- 1 Đường đi ngắn nhất giữa tất cả các cặp đỉnh
- 2 Hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
- 3 Chất lượng tín dụng và tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn
- 4 Những căn cứ quy hoạch sử dụng đất đai và Nội dung của qui hoạch sử dụng đất đai
- 5 Chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại
- 6 Mã đối xứng
- 7 Phương pháp đánh giá đất đai của FAO(1976)
- 8 Quá trình ra đời của hệ thống ngân hàng và sự cần thiết của việc quản lý tiền dự trữ
- 9 Những đối tượng ngoại lệ
- 10 Chiến lược cách mạng hóa công nghiệp (Trực tiếp từ Dell) /Chương 3