24/05/2018, 22:24

Khu vực kinh tế tư nhân

Theo kinh nghiệm của các nước phát triển như Mỹ, Nhật thì khu vực kinh tế tư nhân có đóng góp vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội cho những quốc gia này, chẳng hạn như Mỹ là một nước mà nỗi tiếng có nhiều công ty đa quốc gia nổi tiếng toàn ...

Theo kinh nghiệm của các nước phát triển như Mỹ, Nhật thì khu vực kinh tế tư nhân có đóng góp vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội cho những quốc gia này, chẳng hạn như Mỹ là một nước mà nỗi tiếng có nhiều công ty đa quốc gia nổi tiếng toàn cầu, nhưng đó chỉ là bề nỗi của nền kinh tế mỹ, còn khu vực kinh tế tư nhân mới là đóng góp lớn cho nền kinh tế Mỹ, quay trở về Việt Nam thì khu vực kinh tế tư nhân đã hình thành và phát triển khá sớm nhưng do nhiều hoàn cảnh của đất nước mà khu vực kinh tế này có những lúc đã bị lãng quên trong một thời gian dài, nhưng do cũng như những nứơc khác trên thế giới, khu vực này ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nên kinh tế nước nhà, và trong những năm gần đây đã được Đảng và Nhà nước quan tâm tạo nhiều điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển.

đã xuất hiện từ trước cách mạng tháng 8, nhưng khu vực kinh tế này chỉ phát triển mạnh mẽ từ sau cách mạng tháng 8 và đã có những đóng góp rất lớn cho miền bắc từ năm1955 – 1957 với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó co kinh tế cá thể và tư bản tư nhân và thành phần kinh tế này đã có những đóng góp rất lớn cụ thể như: năm 1955 có 51688 cơ sở công nghiệp tư nhân và tiểu thủ công nghiệp, với số lượng công nhân làm việc trong các cơ sở đó là 128622 công nhân, và đã tăng 54985 cơ sở và 161241 công nhân trong năm 1957, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 81,9% giá trị của toàn xã hội.

Từ năm 1958 chuyển sang thời kỳ xây dung chủ nghĩa xã hội, khu vực kinh tế tư nhân bị xoá bỏ hoàn toàn, tuy nhiên khu vực kinh tế này vẫn tồn tại dưới hình thức ngầm, khi xây dựng xã hội chủ nghĩa thì tư bản tư nhân bị quan niệm là thành phần bóc lột do đó bị liệt vào dạng bị cải tạo tuy nhiên về thực tế thì thì thành phần này vẫn tồn tại ngầm dù họ vẫn tham gia vào hợp tác xã, nhưng khi về nhà thì họ vẫn làm riêng tính về thu nhập của họ thì khi họ tham gia vào hợp tác chỉ thu được 30 %– 40% thu nhập của họ. Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và mô hình kinh tế hợp tác không hiệu quả thì đến đại hội VI của đảng thì khu vực này chính thức được công nhận trở lại và nó đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho đất nước và hiện nay khu vực nay đang được sự quan tâm đặc biệt của đảng và nhà nước. Và điều này được thể hiện qua đại hội đảng IX của Đảng, đại hội khẳng định:’’ Kinh tế cá thể , tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị tri quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển … Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, tạo môi trương kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước … xây dựng tốt quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động” .

Trải qua nhiều thăng trầm cùng với những khó khăn của đất nước, khu vực kinh tế tư nhân có những lúc được thừa nhận rồi không rồi lại được thưa nhận, nhưng với định hướng của đảng được khẳng đinh trong đại hội IX của Đảng thì trong những năm ngần đây khu vực kinh tế này đã có những bước phát triển về mọi mặt, khu vực kinh tế này đã, đang và sẽ có những đóng góp không nhỏ vào các mặt kinh tế xã hội của Việt Nam. Và ngày càng khẳng định được chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế của Việt Nam, và điều này được thể hiện qua những mặt sau:

Phát triển về số lượng.

Với sự khuyến khích mạnh mẽ và tạo nhiều điều kiện thuân lợi của Nhà nước thì khu vực kinh tế tư nhân đã có nhưng đáng kể về số lượng.

Về hộ kinh doanh cá thể: số hoạt động từ 1498611 hộ năm 1992 và tăng lên 2016259 hộ vào năm 1996, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 7, 68%/ năm, mỗi năm tăng 129412 hộ, từ năm 1996 đến 2000 số lượng hộ kinh doanh các thể hoạt động tăng châm, từ 1996 là 2016259 lên 213731 hộ năm 2000, tăng bình quân 1,47% /năm, mỗi năm tăng30364 hộ và đến cuối năm 2003 cả nước có khoảng 2,7 triệu hộ kinh doanh, 130000 trang trại và 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá, sở dĩ có sự giảm về số lượng hộ cá thể là vì nhiều hộ đã chuyển lên thành lập công ty sau khi đã tích luỹ được trong một thời gian dài và những năm gần đây lại gặp nhiều điều kiện thuận lợi trong thành lập doanh nghiệp.

Về doanh nghiệp: số lượng các doanh nghiệp tăng được thể hiện qua các năm như sau: năm 1991 cả nước có khoảng 414 doanh nghiệp, đến năm 1992 là 5189 doanh nghiệp và đến 1995 là 15276 doanh nghiệp, năm 1999 là 28700 doanh nghiệp, từ khi luật doanh nghiệp đi vào hoạt động 1/1/2000 thì đã tao ra một bước đột phá trong tăng số lượng các doanh nghiệp, tính từ năm 2000 đến tháng 5- 2004 cả nước có khoảng 93208 doang nghiệp đang ký thành lập mới,gấp hơn hai lần số doanh nghiếp được thành lập trong thời gian trước đó từ 1991- 1999 chỉ có 45000 doanh nghiệp được thành lập, tính đến cuối 2004 cả nước có khoảng 138208 doanh nghiệp đang ký thành lập theo luật doanh nghiệp, trung bình hàng năm tăng 3,75 lần so với trung bình của những năm trước 2000, vể cơ cấu thì tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đang ký giảm từ 64% trong giai đoạn 1991 – 1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000 – 2004. Trong khi đó cùng thời gian trên thì tỷ trong của công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ 36% đến 66%, trong 4 năm qua có khoảng 7165 công ty cổ phần thành lập gấp 10 lần so với giai đoạn 1991 -1999. tỷ trong doanh nghiệp tư nhân giảm vì số lượng vố của đa số các doanh nghiệp thuộc khu vự này là nhỏ, do đó loại hình này thường không được tin tưởng bằng các loại hình khác hơn nữa các loại hình doanh nghiệp khác có thể hợp vốn của nhiều người có vốn nhỏ lại thành vốn lớn hơn và sẽ có nhiều vốn hơn để hoạt động.

Phát triển về quy mô vốn, lao động, lĩnh vực và địa bàn.

Với sự ra đời của luật doanh nghiệp đã tạo điều kiện rất nhiều trong việc đăng ký thành lập mới doanh nghiệp, do đã giảm rất nhiều về giấy tờ cũng như thời gian. Do đó số lượng doanh nghiệp không những đã tăng lên về số lượng mà số lượng vốn đang ký kinh doanh cũng tăng lên. như thời kỳ 1991 – 1999 vốn đang ký bình quân/1 doanh nghiệp là gần 0.57 tỷ đồng, năm 2000 là 0.96 tỷ đồng, năm 2001 là 1.3 tỷ đồng, năm 2002 là 1.8 tỷ đồng và đến tháng 7 năm 2003 là 2.12 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn thấp nhất cũng là 5 triệu đồng và nhiều nhất là 200 tỷ đồng, như vậy là số lượng vốn đang ký kinh doanh không ngừng tăng lên qua các năm, số lượng vốn đang ký mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ, cụ thể như sau: năm 2000 số vốn đăng ký mới và bổ sung là 1,3 tỷ đồng ,năm 2001 là 2,3 tỷ đồng, năm 2003 là 3,6 tỷ đồng, và đến hết tháng 5 – 2004 là khoảng 1.8 tỷ đồng.

Về lao động thì số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân liên tục tăng lên từ năm 1996 chỉ giảm vào năm 1997 còn lại đều tăng , so sánh với tổng lao động toàn xã hội thì khu vực này chiếm tỷ lệ khoảng 11% qua các năm. năm 2000 số lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 4.643.844 người tăng so với năm 1996 được 778.681 người, từ năm 1996 đến năm 2000 tố độ tăng trung bình là 24,5%/năm trong khi đó ở hộ kinh doanh cá thể chỉ tăng bình quân là 2,01%/năm, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp tăng 487459 tăng 137,57%, trong khi đó các hộ kinh doanh cá thể tăng thêm được 291.222 người tăng 8,29%. Trong khu vực kinh tế tư nhân thì lao động trong công nghiệp chiếm tỷ trọng cao nhất 2.121.228 người chiếm 45,6%, lao động trong ngành thương mại và dịch vụ là 1753824 người, chiếm tỷ trọng 37,37%, lao động trong các ngành khác là 786.792 người chiếm 16,94%. Trong những năm gần đây tốc độ tăng vế số lượng doanh nghiệp tăng nhanh do đó số lượng trong các doanh nghiệp đã tăng, còn tốc độ tăng lao động trong các hộ kinh doanh cá thể thấp hơn của các doanh nghiệp đó là do số lượng các hộ kinh doanh cá thể tăng chậm so với các doanh nghiệp.

Về lĩnh vực và địa bàn: khu vực kinh tế tư nhân phần đông là các doanh nghiệp, đã và đang hoạt động trong hầu hết các ngành nghề mà pháp luật không cấm, không chỉ hoạt động trong nông nghiệp mà còn trong cả các ngành công nghiệp, dịch vụ cao cấp như công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, chế biến, công nghệ thông tin, ngân hàng tài chính, bảo hiểm , tư vấn. Sở dĩ khu vực này có khả năng hoạt động rộng vì một mặt là có số lương đông và tiềm lực về tài chính ngày càng được cải thiện do đã tích luỹ quay nhiều năm, một mặt là khu vực này có mặt ở hầu hết trên lãnh thổ cả nước do đó có thể phát hiện rất nhanh các nhu cầu ở các địa bàn trên cả nước.

Tạo công ăn việc làm.

Sự đóng góp lớn nhất của khu vực kinh tế tư nhân cho xã hội đó là giải quyết việc làm cho người lao động, khu vực kinh tế này hàng năm thu hút lao động mới và từ các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể chuyển sang, năm 2000 số lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân là 9,616733 triệu lao động, chiếm 79,89% tổng lao động, trong năm 2003 khu vực nhà nước có 3,858 triệu lao dộng chỉ chiếm gần 10% lực lượng lao động xã hội và với xu hướng ngày càng giảm số lao động trong khu cực kinh tế này. Do đó có tới hơn 90% lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân, mặt khác hàng năm nước ta có khoảng 1,4 -1,5 triệu người gia nhập thị trường lao động đó là một sức ép rất lớn đến thị trường lao động của nước ta, hơn nữa để đầu tư cho một suất lao động ở khu vực tư nhân tốn 35 triệu đồng, còn ở doanh nghiệp nhà nước là 87,5 triệu đồng như vậy khu vực kinh tế tư nhân có lợi thế tương đối so với khu vực nhà nước trong việc tao việc làm. Sự phát triển của kinh tế tư nhân làm tăng sự lựa chọn cho người lao động và người sử dụng lao động do đó làm tăng sự canh tranh cho thị trường lao động, vì có sự cạnh tranh nên mỗi một lao động muốn tham gia vào thì trường mà được nhiều người thuê và có thể thực hiện được mục đích của mình qua việc làm thì họ phải năng cao trình độ, còn đối với người sử dụng lao động muốn chọn được những lao động như mong muốn của họ thì họ cũng phải đáp ứng được những yêu cầu của ngươì lao động đặc biệt là những người lao động có tay nghề cao. Từ đây cũng đặt ra vấn đề đối với quản lý Nhà nước đối với lao động cũng như đối với các doanh nghiệp trong việc quản lý lao động ở doanh nghiệp mình, để năng cao năng xuất lao động và tránh hiện tượng chảy máu chất xám đang xảy ra cả ở phương diện đất nước lẫn các doanh nghiệp, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tạo nên sự thay đổi cơ cấu xã hội đó là việc hình thành giới chủ doanh nghiệp, những người này nếu làm ăn có hiệu quả, thuê nhiều lao động va không vi phạm pháp luật thì sẽ được nhà nước tôn trọng. Chính phủ cũng đã chọn ngày 13 tháng 10 hàng năm là “Ngày doanh nhân Việt nam”, mặt khác khu vực kinh tế tư nhân phát triển cũng làm thay đổi quan hệ lao động, trước kia quan hệ lao động chỉ chủ yếu là quan hệ giữa nhà nước và người lao động mà đại diện cho nhà nước là những nhà lãnh đạo do Nhà nước bỏ nhiệm các vấn đề về lương bổng do nhà nước quy định, khi kinh tế tư nhân phát triển thì quan hệ lao động được xác lập là giữa người lao động và người sử dụng lao động, xét về quanh hệ lao động thì trong khu vực kinh tế tư nhân mang tính chất thực tế hơn, vì các quan hệ lao động đều phải tuân thủ theo luật lao động mà luật lao động lại do Nhà nước quy định.

Đóng góp vào GDP và thúc đẩy phát triển kinh tế.

Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân từ khi thực hiện luật doanh nghiệp, kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, vốn đầu tư, quy mô hoạt động, các ngành nghề, góp phần vào việc phục hồi và phát triển đất nước, tốc độ tăng trưởng công nghiệp qua các năm từ 2000 – 2004 là 20%, như năm 2001 là 20,3%, năm 2002 là 19%, doanh nghiệp tư nhân đang chiếm một phần lớn trong các ngành công nghiệp, trong nông nghiệp đã có những đóng góp nhất định trong trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là chế biến thuỷ sản, cơ cấu nông nghiệp đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tỷ trọng đóng góp trong GDP năm 2001 là 47,85%, năm 2002 là 42% và năm 2004 là 38,5% tỷ trọng có xu hướng giảm do năng suất lao động trong khu vực này giảm trong khi các khu vực khác tăng lên.

Về xuất khẩu.

đã có những đóng góp đáng kể vào xuất khẩu của việt nam, số lượng đang ký tham gia xuất khẩu tăng mạnh năm 1995 có 156 doanh nghiệp đến 2002 la 13774 doanh nghiệp, khu vực tư nhân tham gia xuất khẩu nhiều mặt hàng như may mặc, cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu … tuy nhiên hoạt động xuất khẩu của khu vực tư nhân phân bố không đồng đều, chỉ tập trung ở những thành phố lớn, thành phố trực thuộc Trung ương, điều này đựơc cụ thể là thành phố hà nội xuất khẩu chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của hà nội và chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, thành phố HồChí Minh là 12%, một số tỉnh có tỷ trọng khá cao như Hà Giang là 60%, Bình Thuận là 45%, khu vực kinh tế tư nhân đã làm tăng thêm sư đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu và đã tìm kiếm được nhiều thị trường để phát triển, năm 2002 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân đã vượt khu vực kinh tế nhà nước về xuất khẩu.

Đóng góp vào ngân sách.

Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào ngân sách đang có xu hướng tăng lên, từ khoảng 6,4% năm 2001 lên 7,4% năm 2002. tỷ lệ này tương đương với đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5,2% và 6% , khoản thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ dân doanh là năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001, doanh số thu từ doanh nghiệp dân doanh chiếm 15% tổng số thu, tăng 29,5% so với các năm trước.

Đóng góp vào ngân sách của địa phương của các doanh nghiệp danh doanh lớn hơn nhiều so vớ trung ương, như thành phố Hồ Chí Minh chiếm 15% tổng ngân sách, Bnh Định là 33%, Thái Nguyên là 17%...

Ngoài ra hiệp hội các doanh nghiệp còn tham gia xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như trường học, đường nông thôn ở các địa phương.

Thu hút nguồn vốn đầu tư xã hội.

Với sự ra đời và đi vào hoạt động cảu luật doanh nghiệp thì số lượng các doang nghiệp đăng ký mới và đang ký mở rộng quy mô sản xuất, từ đó đã huy động được lượng lớn tiềm lực của nhân dân vào phát triển kinh tế, trong đó năm 2000 đạt 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là 3 tỷ USD, năm 2003 là 3,6 tỷ USD, riêng giai đoạn từ 2000 – 2004 đã cao gấp 4 lần so với thời kỳ 1991- 1999, trong đó có những tỉnh tăng gấp 10 lần, thậm chí có những tỉnh tăng cao đến 20 lần như tỉnh Hưng Yên, Quản Ninh…

Từ tốc độ tăng số vốn hoạt động thì tỷ trọng đầu tư của khu vực này cũng tăng dần qua các năm, cụ thể như tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng đầu tư của xa hội tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002 và tỷ trọng này là 27% năm2003 và năm 2004 là 32%, như vậy tỷ trọng đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân đã ngày càng tăng và đã vượt qua tỷ trọng của nhà nước.

Theo dự đoán của bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư thì đến giai đoạn 2006 – 2010 tổng nhu cầu đầu tư là 130-140 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế tư nhân gồm cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài là khoảng 53%, hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của khư vực kinh tế tư nhân cao hơn của khu vực Nhà nước, trong khi một đồng vốn của khu vực tư nhân tạo ra được 1,66 đồng doanh thu, thì một đồng vốn của các doanh nghiệp nhà nước chỉ tao ra được 0,71 đồng doanh thu. Mặt khác vốn của khu vực kinh tế tư nhân còn là vốn đầu tư chủ yếu của địa phương chẳng hạn ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2002 chiếm 38% tổng số vốn toàn xã hội trong khi đó vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 36,5%.

Tạo môi trường kinh doanh.

Sự phát triển ngày càng lớn và mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân, tham gia vào hầu như tất cả các ngành nghề và moi lực vực, thì khu vực này đã và đang đóng góp rất lớn trong việc tao ra môi trường kinh kinh doanh, thúc đẩy phát triển cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh quá trình hội nhập.

Sự tham gia ngày càng nhiều vào tất cả các ngang nghề đã tao ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, phá bỏ dần tính độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước, làm cho các doanh nghiệp phải cải thiện môi trường làm việc, công nghệ… để nâng cao năng suất lao động, cải tiến sản phẩm …, sự phát triển của kinh tế tư nhân thì các thị trường bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, như là thị trường hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sả, thị trường hàng khoa học và công nghệ, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế của nước ta.

Tuy đã phát triển rất nhanh và phát triển ở mọi nơi và mọi ngành nghề nhưng do xuất phát điểm thấp, từ các những khó khăn do lịch sử để lại, do điều kiện hoàn cảnh chung của cả nền kinh tế, khu vực kinh tế tư nhân cũng còn có nhiều hạn chế.

Quy mô vốn.

Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và các hộ kinh doanh cá thể có nhiều khó khăn về vốn hoạt động, các loại hình doanh nghiệp cá thể có vốn rất nhỏ, 80,26% các loại hình doanh nghiệp có mức vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng, trông khi đó đối với doanh nghiệp Nhà nước là 23,03%. Do vốn nhỏ bé nên điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có thể mở rộng sản xuất kinh doanh và có thể thực hiện được kế hoạch sản xuất của mình, có rất nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực này có nhiều ý tưởng sản xuất tốt nhưng một phần do thiếu vốn do đó họ không thể thực hiện được kế hoạch của mình, do hạn chế về vốn nên họ chỉ tham gia vào các ngành không cần nhiều vốn như là các hoạt động thương mại ít đầu tư vào sản xuất, vì kinh doanh các hoạt động thương mại cần ít vốn hơn rất nhiều so với các ngành sản xuất, điều này cũng làm giảm sự phát triển của các ngành sản xuất, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp thuộc khu vực này là 25 – 30 % trong tổng vốn là đàu tư vào tài sản cố định còn 70 – 75% là vốn lưu động. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình các chủ doanh nghiệp hay chủ hộ phải đi thuê tài sản từ các tổ chức, cơ quan … do đo cơ sở vật chất của họ không ổn định, do thiếu vốn nên họ thường không có được sự tin tưởng của các đối tác của mình, và làm ăn theo kiểu manh muốn chộp giật, không có những chiến lược dài hơi vì thiêu vốn Chỉ có 1/3 doanh nghiệp là được vay vốn ngân hàng, trong số những doanh nghiệp được vay vốn thì họ chỉ vay được 20 % trong tổng số vốn của họ còn lại 80% là huy động từ bạn bè, gia đình, vốn bản thân và sử dụng tín dụng thương mại đối với đối tác kinh doanh, thậm chí là nguồn vốn có mức lãi suất rất cao, đối với nguồn vốn huy động do sử dụng thì thường các họ phải chi phí “ngầm” cao hơn chi phí thực tế khi họ thoả thuận, làm tăng chi phí sản xuất.

Về chất lượng lao động.

với chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp này là rất nhỏ, bình quân mỗi một doanh nghiệp 1 doanh nghiệp có khoảng 19 lao động, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phát triển nhanh là do trình độ lao động của các doanh nghiệp này là thấp, các doanh nghiệp này thiếu nhân lực giỏi, thường thì lao động không được đào tạo bài bản, có chăng chỉ là các khoa ngắn hạn, do đó họ kho tiếp thu được những tiến bộ khoa học, cũng như kỹ năng của họ không cao do đó năng xuất lao động không cao, còn đối với những nhân lực giỏi thì học lại không mặn mà với những doanh nghiệp này do doanh nghiệp không đáp ứng được những tham vọng của họ, có những doanh nghiệp mà lao động không qua đào tạo chiếm tới 100%.

Đối với các hộ kinh doanh cá thể và tiểu chủ thì họ sử dụng lao động trong gia đình và chỉ thuê rất ít công nhân, phần lớn là không qua đào tạo .

Trình độ khoa học công nghệ.

Trong thời đại hiện nay khoa học công nghệ vô cùng quan trọng đối vối mọi mặt đời sống xã hội, các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng thành công những công nghệ hiện đại vào các hoạt động của mình và đã đạt được những thành quả rất lớn, xét về mặt băng chung thì trình độ công nghệ của nước ta so với trên thế giới thì trình độ công nghệ của nước ta có trình độ trung bình thấp, và khu vực kinh tế tư nhân cũng không là ngoại lệ. Hầu hết các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đang sử dụng các trang thiết bị có trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu so với thế giới, chẳng hạn như ở tỉnh Đồng Nai tỷ lệ là 93%, thành phố Hồ Chí Minh là 37,7% đang sản xuất bằng thủ công , 43,2% đang sản xuất bằng bán cơ khi, bán tự động. Trình độ khoa học lạc hậu một phần do mặt bằng chung một phần do sự thiếu vốn của các doanh nghiệp thuộc khu vực này, họ không có đủ vốn để mua những công nghệ tiến tiến, mà công nghệ không cao dẫn đến năng suất lao động không cao dẫn đế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là không lớn, kể cả thị trường trong và ngoài nước, mà cạnh tranh là yếu tố cơ bản để đảm bảo tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, và là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp, sản phẩm họ sản xuất ra có bán được thì họ mới có doanh thu để mà trang trải phí và có lợi nhuận, hơn nữa các doanh nghiệp đang tồn tại trong một môi trường cạnh tranh rất khốc liệt như hiện nay.

Trình độ quản lý.

Trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn thấp. Đa số các chủ doanh nghiệp, trưởng thành từ thực tiễn và học hỏi qua bạn hàng, ước tính khoảng trên 80% trưởng thành từ kinh nghiệm thực tiễn chỉ có một số được đào tạo qua trường lớp chính quy về quản trị doanh nghiệp hay quản lý về kinh tế chung. Khoảng 85% các doanh nghiệp tư nhân được phát triển trên cơ sở hộ cá thể, 285 chủ doanh nghiệp là cán bộ nhà nước đã nghỉ theo chế độ.Chính vì quản lý và điều hành dựa vào kinh nghiệm được tích luỹ, chưa qua đào tạo và không có bằng cấp chuyên môn nên khó khăn trong việc cạnh tranh, hơn nữa trong điều kiện hội nhập như hiện nay.kiểu kinh doanh trên sẽ không còn phù hợp do hiện nay nó là rào cản sự phát triển của doanh nghiệp, chẳng hạn là làm ăn theo lối chộp giật, khó có khẳ năng tiếp thu những cái mới.

0