24/05/2018, 23:37

Khái quát thị trường xuất khẩu thủy sản tại Mỹ của Việt Nam

Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm. Năm 1998 lên tới 82 ...

Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu sang Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban đầu còn thấp, mới chỉ có 6 triệu USD. Từ đó giá trị thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng liên tục qua các năm. Năm 1998 lên tới 82 triệu USD và đưa Việt Nam lên vị trí thứ 19 trong các nước xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ. Năm 1999 Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam 130 triệu USD thủy sản các loại, năm 2000 đạt 302,4 triệu USD và trong 6 tháng đầu năm 2001 xuất khẩu thuỷ Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng đạt 31 nghìn tấn về khối lượng, với giá trị 210,4 triệu USD. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu là tôm đông lạnh. Mặt hàng xuất khẩu lớn thứ hai là cá ngừ tươi đạt 6,3 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2001 cũng tăng vượt bậc so với cùng kỳ năm 2000 (chỉ có 1,5 triệu USD), cá biển đông lạnh có giá trị xuất khẩu đứng thứ 3 với giá trị 2,5 triệu USD trong hai tháng đầu năm 2001, trong đó cá ba sa philê đông lạnh là mặt hàng Việt Nam vẫn chiếm lĩnh thị trường Mỹ với giá trị xuất khẩu 1,7 triệu USD. Mặt hàng cua biển cũng đạt mức tăng trưởng cao trong xuất khẩu sang Mỹ( bao gồm cua sống, cua đông lạnh, cua luộc, thịt cua đông) đạt giá trị xuất khẩu 1,8 triệu USD. Ngoài ra còn một số mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu khác cũng mang lại giá trị lớn cho ngành xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.

Thực trạng thị trường xuất khẩu sản phẩm thủy sản của Việt Nam

Những thuận lợi

Thực tế, việc xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam được diễn ra trên nền tảng của rất nhiều điều kiện thuận lợi. Thuận lợi đầu tiên phải kể đến đó là thuận lợi về điều kiện tự nhiên. Đặc điểm về mặt tự nhiên của nước ta như đã nói ở trên đảm bảo cho nguồn tài nguyên hải sản rất phong phú. Các vùng biển Việt Nam có năng lực tái sinh học cao của vùng sinh thái nhiệt đới và môi trường biển còn tương đối sạch, do đó hải sản được đánh giá là an toàn cho sức khoẻ_ một ưu điểm hàng đầu trên thị trường sản phẩm thuỷ sản thế giới hiện nay.

Trong vùng biển đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2 tổng trữ lượng thuỷ sản biển được đánh giá khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lượng thuỷ sản ở tầng nổi chiếm 62,7% và tầng đáy chiếm 37,3% đảm bảo cho khả năng khai thác 1,4 đến 1,6 triệu tấn thuỷ sản các loại hàng năm trong đó có nhiều loại hải sản quí có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá ngừ, sò huyết...Với 1,4 triệu ha mặt nước nội địa, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản rất dồi dào, khoảng 1,5 triệu tấn mỗi năm. Như vậy, Việt Nam có lợi thế rất lớn về sông, hồ, biển. Hệ thống sông ngòi được phân bố trên cả nước, bờ biển kéo dài từ Bắc vào Nam. Những tiềm năng lớn như thế này nếu được khai thác triệt để thì khả năng xuất khẩu thuỷ sang Mỹ sẽ được gia tăng một cách đáng kể.

Bên cạnh đó chúng ta có thuận lợi rất lớn về nguồn nhân lực. Chúng ta có một đội ngũ công nhân dồi dào về số lượng với bản chất cần cù chịu khó không ngại gian khổ. Đội ngũ công nhân trong ngành thuỷ sản đã góp phần tạo nên thành công trong hoạt sản xuất-xuất khẩu. Đội ngũ nhân lực trong ngành không ngừng được nâng cao về trình độ kỹ thuật và chuyên môn. Tuy nhiên hiện tại, để đáp ứng việc khai thác chế biến thủy sản phục vụ cho xuất khẩu chúng ta còn thiếu một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, đặc biệt trong hoạt động quản lý của các doanh nghiệp.

Về vấn đề sản xuất để phục vụ cho xuất khẩu, từ năm 1986, Việt Nam đã có 41 nhà máy chế biến thuỷ sản với công suất 280 tấn/ngày. Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường Mỹ, Việt Nam đã cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập huấn quốc tế về HACCP( Hazard Analysis critical control Point) từ năm 1991. Năm 1996 số nhà máy chế biến đã tăng lên đến 196 chiếc với công suất chế biến khoảng 1841 tấn/ngày. Ngành thuỷ sản cũng đã thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản, cho nên năm 1998 đã có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn HACCP, năm 1999 lên đến 47 nhà máy, năm 2000 có 67 nhà máy đạt tiêu chuẩn HACCP. Nhờ nguồn đầu tư kịp thời về vốn đã đưa lại những kết quả rõ nét: số tàu thuỷ sản tăng thêm là hơn 1,2 triệu CV(163,36%), trong đó cơ cấu tàu có công suất lớn khai thác xa bờ đã tăng lên rõ rệt, xây dựng được 27 cảng cá trong đó có nhiều cảng đã hoàn thành và đưa lại hiệu quả cao. Về nuôi trồng thuỷ sản tính đến tháng 12/2000: diện tích nuôi trồng thuỷ đã tăng lên hàng chục nghìn ha, chuyển đổi cơ bản diện tích trồng lúa năng suất thấp và đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản bước đầu có hiệu quả .Về chế biến thuỷ sản, trong 5 năm đã tăng thêm 80 nhà máy chế biến với công suất chế biến 300 tấn/ngày, đưa tổng số cơ sở chế biến lên 266 cơ sở, trong đó 220 nhà máy có trang bị nhà xưởng hiện đại, trang bị dây chuyền công nghệ cao, có 50 doanh nghiệp chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản vào EU, 77 doanh nghiệp xuất khẩu vào Bắc Mỹ. Nhờ vậy, năm 2000, ngành thuỷ sản đã được những thành công lớn cả về sản lượng, diện tích nuôi trồng và đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục 1,475 tỷ USD. Rõ ràng, đầu tư đã được chứng minh là có hiệu quả.

Trong các nhân tố thuận lợi chúng ta phải kể đến nhân tố có tính chất quan trọng bậc nhất, ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quá trình xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản, đó là nhân tố chủ trương và đường lối của Đảng, Nhà nước. Chính phủ Việt Nam đã ra rất nhiều những quyết định, chính sách nhằm thúc đẩy ngành xuất khẩu thuỷ hải sản. Có thể đơn cử một số quyết định như sau:

  • Nghị định số 13/CP ra ngày 2/3/1993 đã khơi dậy tiềm năng của cả nước về phát triển lĩnh vực thuỷ sản đặc biệt là hướng về xuất khẩu.
  • Quyết định số 400/TTg ra ngày 7/8/93 cho phép miễn thuế tài nguyên, thuế doanh thu và thuế lợi tức, hoàn thuế xuất khẩu trong 3 năm đối với hoạt động đánh bắt thuỷ hải sản xa bờ.
  • Quyết định 428/TTg ra ngày 7/8/95 về đầu tư “ Khôi phục và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá” bao gồm việc xây dựng các cảng cá, cho vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển công nghệ chế biến sau thu hoạch...
  • Quyết định số 251/1998/QĐ-TTg về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản.

Ta thấy rằng đường lối đúng đắn của Đảng và Chính phủ đã tạo ra một cơ hội thuận lợi cho mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ mà đặc biệt là hàng thuỷ sản Việt Nam. Mặt khác ngành thuỷ được hỗ trợ bởi biện pháp chính sách của Nhà nước: hỗ trợ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ hỗ trợ xây dựng quy hoạch, hỗ trợ đầu tư xúc tiến thương mại...Những hỗ trợ này tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay Chính phủ đang thông qua cơ chế điều hành xuất - nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2005. Với cơ chế mới này mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ các rào cản pháp lý, thủ tục gây trở ngại cho hoạt động xuất nhập khẩu. Khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế trong đó có Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thuận lợi hơn. Môi trường đầu tư của Việt Nam: môi trường pháp lý, môi trường hành chính, môi trường tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực...ngày càng hoàn thiện, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong đó có các nhà đầu tư Mỹ vào Việt nam sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản. Chính sách ưu đãi đầu tư đối với Việt kiều ngày càng thể hiện tính ưu việt: thu hút hàng ngàn kiều bào chuyển vốn về nước, tạo ra hàng trăm dự án sản xuất linh hoạt trong đó có nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu thuỷ sản nhằm tiêu thụ tại thị trường Mỹ. Có khoảng 1,5 triệu người Việt kiều sống tại mỹ đa số họ đều có lòng yêu nước, hướng về cội nguồn, nếu có sự kết hợp tốt thì Việt kiều ở Mỹ sẽ là cầu nối cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ. Bản thân nội lực của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc ngành thuỷ sản nói riêng của Việt nam đã được nâng lên đáng kể sau 10 năm thực hiện chính sách mở cửa hội nhập: trình độ tay nghề công nhân, trang thiết bị, máy móc đã được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm có chất lượng cao đã đáp ứng được yêu cầu thị trường trong đó có thị trường Mỹ.

Sự tăng trưởng của xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ gắn liền với sự tiến bộ trong quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam –Hoa Kỳ, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ được ký vào ngày 13/7/2000. Sự kiện này mở ra những cơ hội kinh doanh mới, nhất là sau khi hiệp định được thông qua bởi hai nhà nước Việt Nam –Hoa Kỳ. Đối với Việt Nam và các nước xuất khẩu thuỷ sản khác, thì thị trường Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới và cũng là thi trường tiêu thụ đa dạng về mặt hàng, giá trị và chất lượng. Ngay sau khi hiệp định song phương có hiệu lực, quy chế tối huệ quốc( MFN ) trong thương mại hàng hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng thuỷ sản Việt Nam vao thị trường đầy hấp dẫn này với sự ưu đãi về mức thuế nhập khẩu MFN, chẳng hạn đối với thịt cua thuế suất MFN là 7,5%,phi MFN là 15%; ốc: thuế suất tương ứng là 5% và 20%; cá philê tươi và đông: 0%và 0-5,5% cent/kg; cá khô 4-7% và25-30%...

Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khuyến khích việc tổ chức xúc tiến hoạt động thương mại giữa hai nước như: hội chợ, triển lãm, trao đổi thương mại tại lãnh thổ hai nước, cho phép các công dân, công ty hai nước quảng cáo sản phẩm, dịch vụ bằng cách thoả thuận trực tiếp với các tổ chức thông tin quản cáo bao gồm: truyền hình, phát thanh , đơn vị kinh doanh in ấn và bảng hiệu. Mỗi bên cũng cho liên hệ và cho bán trực tiếp hàng hoá dịch vụ giữa công dân, công ty của bên kia tới người sử dụng cuối cùng. Đây là cơ hội cho cả doanh nghiệp Việt Nam và Mỹ có diều kiện tìm hiểu sâu về thị trường của nhau để mở rộng buôn bán giữa hai nước.

Hiệp định thương mại Việt –Mỹ khẳng định cơ chế chính sách mới của Việt Nam, đánh dấu bước ngoặc trong quan hệ Việt Nam –Hoa Kỳ. Việc chúng ta thực hiện các điều khoản của hiệp định là điều kiện ban đầu cho việc gia nhập WTO sau này. Kể từ khi ký kết đến khi có hiệu lực hiệp định phải trải một thời gian thử thách hơn một năm. Nó được quốc hội hai nươc phê chuẩn rất kỹ trước khi thông qua, có thể nói đó là nỗ lực rất lớn của Đảng và chính phủ ta, cũng như thượng hạ viện Hoa Kỳ. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được thực thi, cánh cửa đi vào thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam được mở rộng hơn. Thuế nhập khẩu sẽ giảm đi 30-40% khi Việt Nam đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ. Theo phòng thương mại Mỹ tại TP Hồ chí Minh sau khi hiệp thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực thì năm nhóm ngành trong đó có ngành thuỷ sản được hưởng lợi nhiều nhất vì thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh. Môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện tăng khả năng thu hút vốn đầu tư chẳng những đối với những doanh nghiệp Mỹ mà còn thu hút vốn đầu tư từ các quốc gia khác. Vì trước khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thì hàng hoá Việt Nam đưa vào thị trường Mỹ không được hưởng quy chế MFN. Cho nên nhiều nhà đầu tư nước muốn sản xuất hàng hoá sang Mỹ không muốn đầu tư vào Việt Nam. Hiệp định thương mại được thông qua thì hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ được hưởng quy chế MFN, vấn đề còn lại là ta tiếp tục hoàn chỉnh môi trường đầu tư mà ta đã cam kết theo tinh thần của hiệp định: tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng để luồng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế có điều kiện phát triển như nhau. Đơn giản hoá thủ tục và theo lộ trình thì bỏ giấy phép đầu tư, các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp FDI chỉ đăng ký kinh doanh đầu tư. Sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực chắc chắn rằng ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào thị trường Mỹ. Bởi vì, trước hết các thông tin về thị trường, khách hàng, đối tác sẽ được cập nhật hơn. Sự am hiểu thi trường Mỹ sẽ tăng lên đối vơi các doanh nghiệp Việt Nam hiệp định thương mại như nhịp cầu nối giữa các doanh nghiệp hai nước tạo điều kiện cho sự hợp tác kinh doanh xuẩt khẩu phát triển hơn. Đó là những điều kiện rất thuận lợi mà hiệp định thương mại Việt – Mỹ mang lại cho chúng ta.

Những điều kiện thuận lợi như đã phân tích ở trên, ngành xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản đã đạt được những thành tựu to lớn. Từ năm 1996 đến năm 2000 ngành luôn hoàn thành kế hoạch nhà nước giao, năm sau cao hơn năm trước và đạt được mức tăng trưởng cao (bình quân 9,17%/năm), giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng 21,85%/năm. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 đạt 1,475 tỷ USD, bằng 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và vươn lên đứng hàng thứ 3 trong các ngành xuất khẩu của Việt nam.

Sau năm năm 1996-2000 tổng mức đầu tư của ngành thuỷ sản là 9.185.640 triệu đồng trong đố đầu tư nước ngoài là 545 tỷ đồng( chiếm5,93%). Trong hơn 9 nghìn tỷ đồng được huy động để đầu tư phát triển, ngành chủ yếu vận dụng nội lực là chủ yếu, vốn đầu tư trong nước là hơn 8600 triệu đồng chiếm tới 90,07% tổng mức đầu tư. Để có được nguồn vốn ngân sách thì ngành đã có biện pháp huy động nguồn vồn trong dân đạt 1700 tỷ đồng ( chiếm tỷ trọng 18,62%).

Trong giai đoạn 1999-2000, ngành thuỷ sản của nước ta sẽ phấn đấu đưa tỷ trọng của ngành trong GDP lên 2,5-3% và đảm bảo tốc độ tăng tổng sản lượng bình quân của ngành lên 4,5-5,1%/năm, trong đó khai thác hải sản tăng 1,7%/năm và nuôi trồng thuỷ sản tăng 8,5%/năm. Đến năm 2010 tỷ trọng nuôi trồng thuỷ sản trong tổng sản lượng của ngành cần đạt 50%. Đồng thời phấn đấu đưa tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lên tốc độ trung bình là 15-20%/năm, tốc độ tăng việc làm trong nghề cá lên trung bình là 2,65%/năm trong cả thời kỳ 1999-2010 . Mục tiêu lớn nhất đưa tổng sản lượng thuỷ sản đạt từ 1,8-1,9 triệu tấn vào năm 2005. Đạt được những thành tựu đó nhờ có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, sự phối hợp giúp đỡ của các bộ ban ngành ở trung ương, các cấp chính quyền ở địa phương, có sự nỗ lực chung của các cán bộ công nhân viên ngành và hàng triệu lao động trong cả nước. Hy vọng trong thời gian tới ngành thuỷ sản sẽ đáp ứng yêu cầu đặt ra, với những tiềm năng sẵn có của mình Việt Nam có thể cải thiện được vị trí của mình trên thị trường Mỹ.

Những khó khăn

Bên cạnh những điều kiện hết sức thuận lợi mà những yếu tố chủ quan cũng như khách quan đã mang lại thì ngành xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản nước ta còn gặp một số những vấn đề khó khăn làm cản trở quá trĩnh xúc tiến đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ.

Xuất phát từ đặc điểm về điều kiện tự nhiên, một vấn đề đặt ra là sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đa số các là các sản phẩm khai thác từ thiên nhiên, đất đai, tài nguyên biển. Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu được chế biến dưới dạng mới qua sơ chế nên hiệu quả thấp, giá cả còn bấp bênh, giá xuất khẩu không ổn định. Tính cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam còn thấp trên cả hai khía cạch giá cả và chất lượng so với sản phẩm cùng loại có xuất xứ từ các quốc gia khác .

Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường hơn 10 năm qua. Hoạt động xuất nhập khẩu theo đó cũng mới phát triển. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ bắt đầu từ năm 1994. Bởi vậy chúng còn gặp rất nhiều khó khăn, sức ép từ thị trường, đối thủ cạnh tranh. Phải nói rằng chúng ta chưa có kinh nghiệm trên thị trường quốc tế , đặc biệt thị trường Hoa Kỳ. Khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, mà ở đây là thuỷ sản vấn đề thị trường có tác động mạnh nhất đến sự tồn tại của hàng Việt Nam trên đất Mỹ. Trở ngại lớn nhất là chúng ta đang phải đối chọi với những đối thủ cạnh tranh mạnh hơn chúng ta rất nhiều. Sức mạnh của đối thủ cạnh tranh thể hiện ở thâm niên chất lượng sản phẩm và các yếu tố khách quan khác. Việt Nam không phải là đối tác duy nhất của Mỹ, xuất khẩu thuỷ sang Mỹ có nhiều đối thủ rất mạnh so với chúng ta như Canađa, Trung Quốc...Thị phần thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường Mỹ còn rất khiêm tốn. Đó là một đòi hỏi, thách thức rất lớn đối với nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam.

Thị trường Mỹ tuy rộng lớn nhưng chúng ta chưa mở rộng được quy mô, nguyên nhân ở đây có thể là chúng ta yếu kém về khâu tổ chức bán hàng, marketing sản phẩm, do chất lượng hàng hoá chưa bằng một số đối thủ cạch tranh ở một khía cạnh nào đó, cũng có thể do nguyên nhân khách quan xuất phát từ thị trường Mỹ.

Một khó khăn mà chúng ta còn gặp phải đó là vấn đề về chất lượng và độ an toàn, vệ sinh thực phẩm. Mặc dù cơ quan FDA của Mỹ đã công nhận hệ thống HACCP của VIệt Nam, nhưng chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam còn hạn chế do trình độ công nghệ chế biến và bảo quản còn thấp, chủ yếu là công nghệ đông lạnh.

Bên cạnh đó trong lĩnh vực tiếp thị, mặc dù đã có trên 50 doanh nghiệp Việt Nam đang xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng hầu như chưa có doanh nghiệp nào mở được văn phòng dại diện tại nước Mỹ. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam ít có cơ hội giao thương với những nhà phân phối Mỹ, nhất là tìm hiểu các luật chơi của thị trường này.Đó là một thiệt thòi mà chúng ta cần phải cố gắng khắc phục.

Trong khâu chế biến, công nghệ chế biến thuỷ sản nhập từ nước ngoài vừa cũ vừa lạc hậu, do đó không đảm bảo được chất lượng sản phẩm phục vụ cho việc xuất khẩu. Việt Nam được ví như bãi thải công nghiệp, nên ngành thuỷ sản cũng không tránh khỏi sự lạc hậu, sự cũ kỹ về công nghệ. Như vậy muốn có sản phẩm chế biến từ thuỷ sản đủ tiêu chuẩn chất lượng cho xuât khẩu, chúng ta phải có được công nghệ tiên tiến , vậy để có công nghệ tiên tiến thì phải có lượng vốn lớn, khó khăn về vốn có thể là ngọn ngành của mọi vấn đề. Giải quyết về vốn là bài toán khó đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với nước nghèo, nước đang phát triển như Việt nam hiện nay. Vốn có thể được huy động từ hai nguồn: Thứ nhất, huy động trong nước , chủ yếu là trong dân và ngân sách nhà nước, nhưng trong đó ngân sách lại có hạn và còn phải chi cho nhiều cho các lĩnh vực khác, cơ sở hạ tầng khác. Nguồn vốn trong dân tuy có đáng kể nhưng chúng ta chưa có chính sách khuyến khích đầu tư thích đáng để huy động triệt để nguồn vốn đó. Nhìn chung trong hoạt động đầu tư nươc ngoài chúng ta còn nhiều hạn chế, thủ tục còn rườm rà, qua nhiều bước không cần thiết. Đó là vấn đề mà hiện nay Đảng và Nhà nước cần xem xét giải quyết tốt hơn. Khi mà chính sách đầu tư của ta còn cứng nhắc, hủ tục thì kỳ vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài là hạn chế. Nguồn vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam phần lớn dưới các hình thức khác nhau.

Xuất phát từ thực tế khách quan thị trường Mỹ khá rộng và lớn, hệ thống luật của Mỹ lại quá phức tạp, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam mới tiếp cận thị trường này, sự hiểu biết về nó cũng như kinh nghiệm tiếp cận chưa nhiều. Thị trường Mỹ quá xa Việt Nam nên chi phí vận chuyển và bảo hiểm chuyên chở hàng hoá rất lớn, điều này làm cho chi phí kimh doanh từ Việt Nam sang Mỹ tăng lên. Hơn nữa thời gian vận chuyển dài làm cho hàng tươi sống bị giảm về chất lượng, tỷ lệ hao hụt tăng-đây cũng là nhân tố khách quan làm giảm tính cạch tranh của hàng Việt Nam xuât khẩu sang Mỹ so với hàng hoá từ các nươc Châu Mỹ la tinh.

Như đã phân tích ở trên, hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã mang lại cho ngành xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam rất nhiều những điều kiện thuận lợi, tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, nhất là trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thứ nhất việc được hưởng quy chế MFN chưa phải là điểm quyết định để tăng khả năng cạnh tranh đối với hàng thuỷ sản Việt Nam, vì Mỹ đã áp dụng quy chế MFN với 136 nước thành viên WTO, ngoài ra còn có ưu đãi dặc biệt đối với các nước chậm phát triển, nhưng Việt Nam chưa được hưởng chế độ này. Mức thuế trung bình là 5%, nhưng nếu được hưởng ưu đãi thì mức thuế này tiến tới 0%. Hiện nay có hơn 100 nước xuất khẩu đủ các mặt hàng thuỷ sản vào Mỹ, trong đó có nhiều nước có truyền thống lâu đời trong buôn bán thuỷ sản với Mỹ như Thái Lan(tôm sú đông, đồ hộp thuỷ sản...), Trung Quốc(tôm đông cá rô phi..), Canađa(tôm hùm, cua...), Inđônêsia (cua ,cá ngừ, cá rô phi...), Philippin(hộp cá ngừ,cá ngừ tươi đông, tôm đông và rong biển...)...nên sự cạnh trên thị trường sẽ ngày càng quyết liệt đặc biệt đối với một số mặt hàng chủ lực như tôm, cá philê, cá ngừ. Trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu, Mỹ có nhu cấu cao về các mặt hàng đã qua tinh chế( tôm luộc, tôm bao bột, tôm hùm, cá phi lê, hộp thuỷ sản) trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sơ chế, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng thấp (chỉ chiếm khoảng 30% giá trị xuât khẩu của Việt Nam). Cụ thể với mặt hàng cá ngừ, hiện nay Việt Nam mới chỉ xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông vào Mỹ(90% giá trị xuất khẩu cá ngừ) trong khi cá ngừ đóng hộp là mặt hàng được tiêu thụ nhiều ở Mỹ thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam lại không đáng kể( 5%). Mỹ coi trọng cả nhập khẩu thuỷ sản phi thực phẩm bao gồm các sản phẩm hoá học gốc thuỷ sản: ngọc trai, cá cảnh...(giá trị nhập khẩu năm 2000 đạt 9 tỷ USD, chỉ kém hàng thuỷ sản thực phẩm 1 tỷ USD) nhưng ta chỉ mới trú trọng đến xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Vì vậy có thể nói chưa có sự phù hợp cao trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu của thị trường Mỹ.

Trên đây là một số những thuận lợi và khó khăn trong việc xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Chúng ta cần phải khai thác triệt để những thuận lợi và hạn chế, khắc phục những khó khăn nhằm mục đích cuối cùng là tạo cho mặt hàng thuỷ sản Việt Nam một vị thế chắc chắn trên thị trường Mỹ.

0