24/05/2018, 17:17

Khái quát chung về chất lượng sản phẩm

Không nằm ngoài các vấn đề khoa học, kinh tế kỹ thuật khác, chất lượng và chất lượng sản phẩm đã được nhiều các học giả cũng như các trường phái khác nhau nghiên cứu. Trên mỗi giác độ để nhìn nhận thì chất lượng và chất lượng sản phẩm lại có những tính chất, ...

Không nằm ngoài các vấn đề khoa học, kinh tế kỹ thuật khác, chất lượng và chất lượng sản phẩm đã được nhiều các học giả cũng như các trường phái khác nhau nghiên cứu. Trên mỗi giác độ để nhìn nhận thì chất lượng và chất lượng sản phẩm lại có những tính chất, đặc thù riêng biệt vì nó chịu sự phụ thuộc vào nhận thức, quan điểm của mỗi nhà nghiên cứu. Chính vì lý do đó ta có thể coi chất lượng mang tính tương đối, nó nằm trong sự chi phối của rất nhiều yếu tố như: kinh tế – xã hội, kỹ thuật, tự nhiên, môi trường hay cả những thói quen của từng người.

Song dù có xem xét vấn đề này ở góc độ nào đi nữa, chúng ta cũng đều nhất trí với nhau một điều là nhờ có sự tiến bộ nhanh chóng của các ngành khoa học tự nhiên, xã hội mà ngày càng được hoàn thiện hơn, chính xác, khoa học hơn. Và tất nhiên chúng ta phải có một quan niệm đúng đắn, chính xác về chất lượng và chất lượng sản phẩm thì mới có thể đảm bảo cho hoạt động thực tiễn về quản lý chất lượng một cách có hiệu quả. Nếu như cái nhìn bị sai lầm, mơ hồ sẽ không biết quản lý cái gì và quản lý như thế nào. Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta hãy tiếp nhận một số khái niệm khác nhau về chất lượng và chất lượng sản phẩm.

Theo Emanuel Cantơ( nhà triết học Đức) cho rằng: “ chất lượng là hình thức quan toà của sự việc”.

Điều đó cho thấy mội sự việc hay kết quả của những sự việc hữu hình hay vô hình thì cũng phải chiụ một sự chi phối chung mang tính tất yếu khách quan là chất lượng. Mọi kết quả của các quá trình không mang trong mình đặc tính chất lượng thì quá trình đó không có lý do để tồn tại.

Nhìn chung theo quan điểm triết học chất lượng là một phần tồn tại bên trong của các sự vật hiện tượng.

Còn trong từ điển Tiếng Việt ( 1994) thì chất lượng là cái tạo nên phẩm chất giá trị của một con người, một sự vật, một sự việc.

Điều này cho thấy chất lượng mang một ý nghĩa rất rộng và bao trùm lên mọi hình thái tồn tại của thế giới vật chất, kể cả hữu hình và vô hình. Xem xét vần đề này vi mô hơn trong sản phẩm hàng hóa, chúng ta cũng khó có thể đưa ra một khái niệm tuyệt đối chính xác. Vì như đã nói ở trên, chất lượng hay chất lượng sản phẩm luôn thay đổi theo các yếu tố tác động và vì thế nó cũng có nhiều quan điểm khác nhau nhìn nhận, nghiên cứu.

Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội không ai phủ nhận tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm. Nó là một yếu tố góp phần đảm bảo sự thành công của một doanh nghiệp nói riêng và cả một nền kinh tế nói chung. Ngay từ đầu thế kỷ 19 đã có những công trình vĩ đại của các nhà kinh điển trong đó có Karl Marx(1818- 1883). Ông cho rằng: “ người tiêu dùng mua hàng không phải hàng có giá trị mà hàng có giá trị sử dụngvà thỏa mãn những mục đích xác định”. Nghĩa là chất lượng sản phẩm không phải là một cái gì đó trừu tượng, vô định mà ngược lại nó có tính xác định, cụ thể mà chúng ta có thể nhờ vào đó để đáng giá sản phẩm này là có chất lượng cao, sản phẩm kia là hàng kém chất lượng- đó chính là các mục tiêu(sẽ được nghiên cứu trong phần sau). Vậy chất lượng là thước đo mức độ hữu ích của giá trị sử dụng biểu thị toàn bộ giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá.

chúng ta chỉ đưa ra một số khái niệm mang tính đại diện và được sự đánh giá cao của giới chuyên môn.

1. Theo quan điểm của hệ thống XHCN trước đây mà Liên Xô làm đại diện thì “ Chất lượng sản phẩm là tất cả các tính chất sản phẩm bảo đảm khả năng thoả mãn nhu cầu nhất định trong những điều kiện nhất định”. Theo đó, chất lượng được coi là một chỉ tiêu tĩnh không gắn các chỉ tiêu của chất lượng sản phẩm với sự thay đổi nhu cầu, hiệu quả sản xuất kinh doanh, điều kiện sản xuất của mỗi nước và của từng doanh nghiệp.

2. Theo khuynh hướng quản lý sản xuất “ Chất lượng của một sản phẩm nào đó là mức độ mà sản phẩm ấy thể hiện được những yêu cầu, những chỉ tiêu thiết kế hay những quy định riêng cho sản phẩm ấy”. Quan niệm này lại quá nhấn mạnh tới những chỉ tiêu thiết kế của sản phẩm, hay quy trình sản xuất mà không đề cập đến khả năng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.

3. Theo khuynh hướng thoả mãn nhu cầu (Quan điểm của tổ chức kiểm tra chất lượng châu Âu – European Organization For Quality Control): “ Chất lượng của sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc của một dịch vụ thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”.

4. Theo tiêu chuẩn AFNOR 50-109 : “ Chất lượng sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”.

5. Theo J.Jvan(Mỹ) “ Chất lượng sản phẩm là sự thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất”.

Hai quan niện này phản ánh chất lượng sản phẩm hàng hoá phải vừa phù hợp với người tiêu dùng lại gắn với mục tiêu của các nhà sản xuất tức cả hai bên đều tăng lợi ích của mình khi sản xuất hay tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng cao.

6. Theo Oxford Pocket Dictionary “ Chất lượng là mức độ hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, đấu hiệu đặc thù, các dữ kiện thông số cơ bản”.

7. Theo Johns. Oakland: chất lượng chỉ là sự đáp ứng yêu cầu. Điều này cũng đã được nhiều tác giả đề cập như: Juran, BS4778, 1987/ISO 8402/ từ vựng chất lượng ; Feigenbaum; Gost...Như vậy, chất lượng sản phẩm có nhiều ngụ ý rộng lớn, đó là số lượng của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, việc giao hàng độ tin cậy, lợi ích chi phí,...Ta có thể lưu ý ở đây là khách hàng có thể là người tiêu dùng cuối cùng mà cũng có thể trong nội bộ công ty như các phòng ban, công đoạn vừa là khách hàng của người này lại vừa là người cung ứng cho người khác.

8. Theo quan niệm CN, KT-XH( kiểm tra chất lượng hàng hoá HN 1979): “ Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những tính chất đặc trưng của sản phẩm, thể hiện mức độ thoả mãn những nhu cầu đã định trước cho nó trong điều kiện xác định về kinh tế, kỹ thuật và xã hội”.

9. Theo TSO 8402- 86: “ Chất lượng sản phẩm là tổng thể những đặc điểm, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng, tên gọi của sản phẩm”.

10. Theo TCVN 5814- 94: “ Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể, đối tượng, tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.

Với các khái niệm này, ta thấy chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu “động” tức là khi có sự thay đổi trình độ kỹ thuật , tay nghề của người lao động được nâng cao, nhu cầu của thị trường biến động thì chất lượng sản phẩm sẽ thay đổi theo hướng ngày càng tốt hơn.

Tóm lại, ta có thể đưa ra một khái niệm tương đối khái quát như sau:

“ Chất lượng sản phẩm hàng hoá là tổng hợp các đặc tính của sản phẩm tạo nên giá tri sử dụng, thể hiện khả năng mức độ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng với hiệu quả cao, trong những điều kiện sản xuất, kinh tế xã hội nhất định”.

Như vậy, chất lượng sản phẩm không những chỉ là tập hợp các thuộc tính mà còn là mức độ các thuộc tính ấy thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong những điều kiện cụ thể. Hay chất lượng sản phẩm vừa có tính chủ quan vừa có tính khách quan. Quan niệm này thể hiện sự KH và toàn diện về chất lượng, cũng như mối liên hệ hữu cơ giữa “ sản phẩm – xã hội – con người”.

Trong sản xuất kinh doanh, mục đích lớn nhất đó là phải sản xuất ra những hàng hoá đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Mà điều cốt lõi là khách hàng luôn muốn tìm cho mình một sản phẩm có chất lượng cao giá cả hợp lý đây là một điều không dễ dàng gì đối với các nhà cung ứng. Để tạo ra một sản phẩm có chất lượng không chỉ đơn thuần quan tâm đến một vài công đoạn của việc sản xuất ra sản phẩm mà bất cứ một sản phẩm nào cũng được hoàn thành theo một trình tự nhất định với nhiều nghiệp vụ khác nhau mà nếu một sự yếu kém bất kỳ nào trong trình tự ấy sẽ trực tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Điều này đã được các học giả phân tích một cách chi tiết các công đoạn phải được quản lý, thực hiện theo một chu trình khép kín, vì sản xuất bắt nguồn từ nhu cầu thị trường và cũng quay trở về thị trường để kiểm chứng và tất nhiên chất lượng sản phẩm cũng được hình thành trong chu trình đó. Ta có thể minh hoạ các giai đoạn trong 3 phân hệ: Nghiên cứu, thiết kế, sản xuất- tiêu dùng.

Sơ đồ 1: VTCL ISO 9004- 87, TCVN 5204-90.

Phân hệ trước sản xuất :(Nghiên cứu thiết kế).

Sản xuất sản phẩm cho người tiêu dùng là mục tiêu của công tác quản lý chất lượng. Đây là một nghiệp vụ quan trọng của phòng marketing trong tổ chức. Nhờ đó mà người sản xuất xác định và làm rõ nhu cầu của người tiêu dùng. Như ta đã biết nguyên lý cơ bản của marketing là bán cái người ta cần chứ không phải cái mà mình có. Quả sẽ là sai lầm nếu như chúng ta cứ sản xuất ra những sản phẩm chất lượng kém, hoặc không như người tiêu dùng kỳ vọng. Nếu chúng ta xác định được một cách khá chính xác về yêu cầu về số lượng, về chất lượng của người tiêu dùng cũng như các mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đặt ra thì các công việc về sau mới có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vì vậy phòng Marketing phải sâu sát với thị trường để phát hiện kịp thời sự thay đổi của nhu cầu và thiết lập mối quan hệ gắn kết với phòng thiết kế sản phẩm.

Thiết kế sản phẩm là một quá trình từ xây dựng, quy định chất lượng sản phẩm, xác định nguồn nguyên vật liệu cho tới thị trường tiêu thụ.

Sau khi chúng ta thực hiện song nhiệm vụ nghiên cứu thì phòng thiết kế sẽ vạch ra những thông tin chi tiết hơn về sản phẩm đó tạo nên một mẫu sản phẩm tương thích với số liệu điều tra nhu cầu, về phát triển sản xuất.

Chất lượng thiết kế giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, tương lai của một tổ chức được nhìn nhận qua lăng kính thiết kế, triển khai sản phẩm mới. Công tác này mang tính chiến lược trong cạnh tranh. Đây là công việc thường xuyên vì mọi sản phẩm đều có chu kỳ sống trong một khoảng nhất định.

Phân hệ trong sản xuất.

Thứ nhất, nghiên cứu triển khai : Đây là là quá trình đầu tư chi phí nhiều nhất để tạo ra sản phẩm. ở đây chúng ta phải thực hiện một số nhiệm vụ như: thiết kế dây chuyền công nghệ, sản xuất thử, đầu tư xâydựng cơ bản. dự tính chi phí, giá thành sản phẩm và giá bán của sản phẩm...Chúng ta cũng cần lưu ý đến sự linh hoạt của dây chuyền sản xuất. Trong một dây chuyền đó ta có thể chế tạo ra được nhiều sản phẩm khác nhau hoặc tương tự nhau. Qua công tác này sẽ cho ta một cái nhìn cơ bản toàn diện về quá trình sản xuất sản phẩm mới và cũng từ đó suất hiện nhiều sai lệch cần được điều chỉnh kịp thời để tiến hành sản xuất hàng loạt.

Thứ hai, chế tạo sản phẩm : Quá trình này có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng như bản thân máy móc thiết bị, người vận hành, điều kiện tự nhiên... nếu có sự sai hỏng trong giai đoạn này thì chi phí là hết sức lớn. Như vậy phải có sự giám sát, quản lý, điều chỉnh kịp thời.

Thứ ba, kiểm tra chất lượng sản phẩm : Tìm biện pháp đẩm bảo chất lượng quy định, bao gói, chuẩn bị xuất xưởng. Mặc dù đây là công đoạn cuối cùng của phân hệ sản xuất song nó cũng khá quan trọng vì qua đó phát hiện những sản phẩm sai hỏng để khắc phục trước khi nó đến tay người tiêu dùng. Xu thế chung là phải thay thế kiểu kiểm tra sản phẩm cuối cùng bằng ciến lược phòng ngừa và phải sử dụng thanh tra để xem xét lại hệ thống chuyển đổi chứ không phải sản phẩm vì phát hiện sản phẩm tồi là rất tốn kém, lãng phí và kém hiệu quả.

Phân hệ sau sản xuất (tiêu dùng ).

Nếu như trước đây người sản xuất chỉ tập chung nỗ lực của mình vào giai đoạn(phân hệ ) trước sản xuất và khi sản xuất. Thì nay, phân hệ sau sản xuất được doanh nghiệp rất quan tâm vì người ta không thể phủ nhân tầm quan trọng lớn lao của nó, các quá trình cơ bản của phân hệ này bao gồm:

Vận chuyển sản phẩm sang mạng lưới lưu thông, tổ chức dự trữ bảo quản. Các kho hàng tiếp nhận sản phẩm đồng thời qua đó có sự kiểm tra trách nhiệm cả người giao hàng về số lượng và chất lượng. Do đó bộ phận này ngoài chức năng dự trữ còn là một phòng tuyến ngăn ngừa hàng kém chất lượng lọt vào mạng lưới phân phối.

Bán hàng, dịch vụ kĩ thuật, bảo quản, hướng dẫn sử dụng. Sẽ chưa có cơ sở để chắc chắn rằng người tiêu dùng sẽ khai thác triệt để tính năng công dụng mà sản phẩm mang laị nếu như thiếu công tác này. Quá trình di chuyển hàng hoá từ nhà sản xuất, qua các kênh phân phối rồi tới người tiêu dùng chịu tác động nhiều của các nhân tố khách quan đặc bịêt những mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng dễ hỏng, dể vỡ... Ngày nay với sự chi phối của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn tăng cường công tác dịch vụ sau bán hàng(After Sale) và nó đã thực sự trở thành một vũ khí cạnh tranh có hiệu quả. Chính nhờ nó mà sản phẩm phát huy hết được giá trị sử dụng, người tiêu dùng dễ dàng khai thác sản phẩm một cách tối ưu, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.

Và cuối cùng là quá trình trưng cầu ý kiến khách hàng về chất lượng, số lượngcủa sản phẩm, lâp dự án cho bứơc sau...

Các quá trình đó cứ lặp lại thành những chu trình khác nhau.Trong suốt quá, trình chất lượng sản phẩm sẽ không ngừng được cải tiếnvà nâng cao... Do đó, quản lý chất lượng đi từ thị trường và trở về thị trường, lần lặp lại sau phủ định lần trước nhưng ở mức hoàn hảo hơn.

Nhìn chung, mỗi sản phẩm khác nhau đều có đặc điểm riêng quy định cho chất lượng sản phẩm. Song qua các khái niệm về chất lượng sản phẩm chúng ta có thể đưa ra một số đặc điểm sau:

Chất lượng được đo bằng mức độ thoả mãn của người tiêu dùng.

Cho dù các nhà sản xuất có quảng bá sản phẩm của mình có chất lượng cao đến đâu đi nữa mà nó không được sử ủng hộ, chấp nhận của người tiêu dùng thì điều đó không mang lại ý nghĩa gì. Đây là một đặc điểm cốt lõi cho cấp lãnh đạo hoạch định chính sách, mục tiêu, chiến lược chất lượng sản phẩm của mình. Theo đó, phải đứng trên quan điểm tiêu dùng, đặt vị trí của mình vào vị trí người tiêu dùng, lấy sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng làm thước đo chất lượng thì mới đem lại mức chất lượng sản phẩm hơp lý nhất.

Chất lượng sản phẩm là một khái niệm mang tính tương đối.

Một sản phẩm được coi là có chất lượng tốt trong thời đoạn này, song nó có thể đánh giá là tồi vào thời đoạn khác vì nó chịu ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên, nhu cầu thay đổi, sự tiến bộ mới của khoa học...làm cho nó trở nên lỗi thời khi một sản phẩm với tính năng công dụng cao hơn rất nhiều ra đời. Tương tự như vậy đối với từng khu vực thị trường người tiêu dùng. Xu hướng chung là chất lượng ngày càng được các hãng cải tiến nâng cao hơn phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng khó tính.

Chất lượng sản phẩm có thể được lượng hoá.

Chất lượng sản phẩm phải được xác định rõ ràng bằng các chỉ tiêu, thông số, kỹ thuật theo quy định của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và đặc biệt quan trọng là người tiêu dùng.

Chất lượng có thể được lượng hoá và thể hiện bằng công thức:

Q=P/B<1

Trong đó:

P: là hiệu năng hoặc kết quả

B: là sự mong đợi hay nhu cầu của người tiêu dùng.

Ta thấy thường thì tỷ số P/B <1. Nếu Q=1 thì coi như nhu cầu của người tiêu dùng được hoàn toàn thoả mãn.

Chất lượng sản phẩm phải có độ an toàn và tin cậy đối với người tiêu dùng trong quá trình sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó.

Chất lượng là vấn đề luôn được đặt ra ứng với mọi trình độ sản xuất.

Khi khoa học kĩ thuật thay đổi sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất và dẫn đến chất lượng sản phẩm cũng theo đó mà tăng lên. Do đó, ứng với trình độ sản xuất nào sẽ có một mức độ chất lượng nhất định.

đây là đặc điểm phải được các doanh nghiệp quan tâm để không ngừng nắm bắt những tiến bộ của khoa học công nghệ đưa vào thực tế sản xuất. có như vậy sản phẩm mới có năng lực cạnh tranh trên thị trường.

Từ các đặc điểm trên ta thấy sự cần thiết phải đánh giá đúng mức chất lượng sản phẩm, so sánh với nhu cầu của người tiêu dùng để sản phẩm luôn mang lại tối đa lợi ích cho người tiêu dùng và lợi nhuận thu được là lớn nhất. Đồng thời phải xem xét đến sự thay đổi của môi trường ngành kinh tế - kỹ thuật để có mức chất lượng hợp lý.

Chất lượng thiết kế.

Chất lượng thiết kế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản phẩm được phác thảo qua văn bản, trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường, các đặc điểm của sản xuất tiêu dùng, đồng thời có so sánh với chỉ tiêu chất lượng các mặt hàng tương tự cùng loại của nhiều hãng nhiều công ty.

Chất lượng thiết kế được thể hiện ở chỗ sản phẩm hoặc dịch vụ đó được thiết kế tốt như thế nào để đạt được mục tiêu. Các sản phẩm có tính năng tác dụng, hình mẫu khác nhau như thế nào đều phụ thuộc vào quá trình thiết kế ra chúng.

Chất lượng thực tế.

Chất lượng thực tế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thực tế đạt được do các yếu tố chi phối như: nguyên vật liệu, máy móc, phương pháp quản lý... Do vậy nó phản ánh khá chính xác khả năng sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.

Chất lượng này sẽ được đánh giá qua quá trình khai thác sử dụng sản phẩm. Khi qua thực nghiệm ta sẽ đánh giá được mức độ tuân thủ thiết kế và có thể rút ra những điểm yếu,điểm mạnh, nắm bắt được sự phù hợp giữa thiết kế và chế tạo, khi xảy ra trường hợp không ăn khớp giữa hai khâu này ta phải tìm nguyên nhân ở cả hai vì có khi chất lượng thiết kế quá cao (hay thấp) trong khi khả năng sản xuất lại rất thấp (hay cao).

Chất lượng chuẩn.

Chất lượng chuẩn là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng được cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Chất lượng thiết kế phải dựa trên cơ sở của chất lượng chuẩn đã được doanh nghiệp, Nhà nước quy định để có các chỉ tiêu về chất lượng của sản phẩm hàng hoá hợp lý.

Sự phù hợp giữa chất lượng chuẩn và chất lượng thiết kế là một lợi thế của sản phẩm do đó để có chất lượng chuẩn ta phải xem xét yêu cầu của các văn bản quy định của Nhà nước, doanh nghiệp, các hợp đồng kinh tế giữa các bên liên quan.

Chất lượng cho phép.

Chất lượng cho phép là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất lượng của sản phẩm giữa chất lượng thực tế với chất lượng chuẩn. Tỷ lệ sai số giữa chúng càng nhỏ thì chất lượng sản phẩm càng được đánh giá cao.

Để xác định chính xác chất lượng cho phép nhà sản xuất phải căn cứ vào năng lực sản xuất thực tế, phương pháp tổ chức quản lý của doanh nghiệp và các yếu tố vĩ mô khác.

Chất lượng tối ưu.

Chất lượng tối ưu là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đạt được mức độ hợp lý nhất trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, hay nói cách khác sản phẩm hàng hoá đạt mức chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, có khả năng mang lại hiệu quả kinh doanh cao.

Các hãng luôn tìm cách đưa chất lượng của mình về mức tối ưu, song không phải dễ dàng gì vì tại đó họ phải đối mặt với những thách thức trong và ngoài doanh nghiệp.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này ta hãy xem xét mối tương quan giữa giá cả của chất lượng sản phẩm và giá trị chất lượng (giá thành) của sản phẩm qua sơ đồ sau:

Sơ đồ 3: Quan hệ giữa giá trị chất lượng và giá cả.

Trong đó:

Ggc: Giá cả sản phẩm.

Ggt: Giá trị sản phẩm.

Mcl: Mức chất lượng sản phẩm.

Ta dễ dàng nhận thấy: Khi chất lượng sản phẩm còn thấp, thậm chí bằng 0, thì giá trị chất lượng cũng không thể bằng 0 được thậm chí chi phí lại ở mức cao. Do đó muốn nâng cao chất lượng thì phải tăng cường đầu tư nghiên cứu, thiết kế, triển khai và do vậy đường cong có xu hướng đi lên. Nếu như cùng điều kiện sản xuất thì mức chất lượng là có giới hạn nhất định dù rằng chi phí sản xuất có tăng. Các hãng cần phải quan tâm tới yếu tố nhu cầu có khả năng thanh toán, tập quán tiêu dùng... của dân cư vì nếu cứ tăng chất lượng sản phẩm lên mãi sẽ phải đặt giá cao và như vậy với mức thu nhập hạn chế thì cầu về hàng hoá này có thể bằng 0, tăng chi phí là vô nghĩa và dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Tại các điểm trước M1cl và sau M3cl thì cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều không muốn cung cấp hay tiêu dùng những sản phẩm đó. Và ta thấy giá cả tăng chậm dần và có thể trở nên bão hoà sau M*cl (mức chất lượng tối ưu ).

Mức chất lượng tối ưu thể hiện lợi thế so sánh của doanh nghiệp, mỗi lần tìm lại lợi thế đó tức là lúc cần phải cải tiến chất lượng sản phẩm và tìm lại chất lượng tối ưu.

Để xác định M*cl của sản phẩm ta phải dựa trên cơ sở sau:

1. Nghiên cứu sản phẩm cạnh tranh tìm mặt mạnh, mặt yếu.

2. Nghiên cứu sản phẩm của doanh nghiệp tìm mặt mạnh, mặt yếu.

3. Nghiên cứu xu hướng phát triển sản phẩm, nhu cầu...

Trong hình vẽ trên Ggc là chi phí của người tiêu dùng gồm: Tiền mua sắm+ chi phí sử dụng, thanh lý hàng năm. Tại mức chất lượng tối ưu thì chi phí của họ là nhỏ nhất. Các hàng nhà sản xuất luôn tìm cách giảm hai loại chi phí trên để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Bên cạnh đó các nhà sản xuất luôn quảng bá sản phẩm của mình, coi khách hàng là thượng đế tất cả đều không nằm ngoài mục đích tạo ra lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.

Như vậy khi chọn M*cl công ty cần xác định nhu cầu về số lượng. Nếu nhu cầu cao về số lượng thì giá trị các chỉ tiêu chất lượng thường có khuynh hướng giảm tạm thời và lợi thế theo quy mô trong sản xuất. Để có mức chất lượng hợp lý nhất, các doanh nghiệp phải có kế hoạch, dự báo chính xác biến đổi của nhu cầu. Đây là một nhiệm vụ của quản lý chất lượng sản phẩm.

Cũng trên sơ đồ 3, đường Ggt thể hiện chi phí sản xuất để tạo ra mức chất lượng cần thiết gồm 3 yếu tố cơ bản cấu thành, đó là:

1. Chi phí cho phần sản xuất sản phẩm như nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao máy móc nhà xưởng, lao động... được tính trực tiếp vào giá thành sản phẩm.

2. Chi phí cho kiểm tra, đánh giá, ngăn ngừa hư hỏng sản phẩm và loại trừ những nguyên nhân có thể làm giảm mức chất lượng.

Các chi phí cho kiểm tra, đánh giá chất lượng gồm: Chi phí chuẩn bị cơ sở kiểm tra. Giá trị các thiết bị đo lường và kiểm tra, giá trị nguyên vật liệu và thiết bị thử nghiệm....

Chi phí ngăn ngừa và loại trừ những nguyên nhân gồm có: Chi phí cho tổ chức kế hoạch hoá chất lượng sản phẩm thiết kế và chuẩn bị thiết bị kiểm tra; chi phí đào tạo cán bộ; chi phí kiểm tra sơ bộ và phân loại người cung cấp nguyên vật liệu, chi tiết...

3. Chi phí cho những tổn thất do sản phẩm hỏng, phế phẩm như sửa chữa lại chế tạo lại... hay cả những chi phí khắc phục hậu quả cho người tiêu dùng do sản phẩm kém chất lượng gây ra.

Chi phí tổn thất này nhiều khi là rất lớn cả về vật chất và phi vật chất đối với doanh nghiệp, như giảm uy tín của doanh nghiệp, bất đồng nội bộ doanh nghiệp ..., nguyên vật liệu, lao động, thời gian hoạt động máy móc...

Ta có thể thấy hai khoản chi phí 2 và 3 nằm trong khoảng 30-:- 40% và 60-:- 70% (*).

Thực tiễn cho chúng ta cái nhìn khá chính xác về việc kiểm tra sản phẩm không mang lại kết quả khả quan, mà ngược lại con đường hiệu quả nhất lại là tăng chi phí phòng ngừa hư hỏng. Từ đó giảm chi phí cho kiểm tra và giảm tổn thất phế phẩm và các dịch vụ khác.

Ta có thể khẳng định: Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm bao gồm cả các yếu tố vi mô và các yếu tố vĩ mô. Sẽ không thể có quản lý chất lượng sản phẩm tốt, có các biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm nếu như chúng ta không biết chất lượng sản phẩm tốt hay xấu là do đâu. Ta hãy lần lượt xem xét các nhân tố đó.

Một số yếu tố ở tầm vĩ mô.

Các yếu tố này có tác động rất lớn tới chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp, khi nó mang tính tích cực sẽ làm cho doanh nghiệp có vị thế hơn trên thương trường, sản phẩm của họ có sức cạnh tranh cao và ngược lại.

Nhu cầu của nền kinh tế.

Chất lượng sản phẩm chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế như yêu cầu về chất lượng của thị trường, khả năng đáp ứng của nhà sản xuất, chính sách kinh tế của Nhà nước, trình độ phát triển sản xuất. Như ta đã biết, sự phát triển kinh tế của một quốc gia nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất(PPF) do nguồn lực là có hạn, trong khi nhu cầu của con người luôn đa dạng và phong phú cả về sồ lượng và chất lượng sản phẩm.Các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự hạn chế về vốn, lạc hậu về công nghệ, máy móc, yếu kém của trình độ công nhân viên so với tình hình mới.

Sự phát triển của Khoa học - Kỹ thuật.

Con người đã và đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện đại với quy mô sâu rộng trên toàn thế giới. Điều này đã luôn làm lực lượng sản xuất phát triển theo hướng hiện đại hơn. Nó tác động mạnh mẽ vào mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội và đặc biệt trong công nghiệp. Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tác động đến quá trình sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, khi một công nghệ mới gia đời sẽ kéo theo một loạt các sản phẩm mới ra đời với ưu thế hơn hẳn các sản phẩm cũ cùng loại về chất lượng.

Sự tiến bộ này còn ảnh hưởng trực tiếp tới các yếu tố đầu vào như: nguyên, nhiên vật liệu mới. Do vậy các doanh nghiệp không những chỉ quan tâm tới yếu tố máy móc thiết bị mà còn phải có những điều chỉnh kịp thời về nguyên vật liệu để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng hiệu quả cạnh tranh cho sản phẩm của mình.

Hiệu lực của vơ chế quản lý.

Như ta đã nói trong phần mở đầu, hiện nay Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường, sự quản lý ấy được thực hiện bằng các phương pháp khác nhau như kinh tế - kĩ thuật, hành chính xã hội, giáo dục- tâm lý...các phương pháp chung hoạch định đó được cụ thể thành các chính sách, quy định nhằm phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá.... Đây là một đòn bẩy quan trọng trong việc quản lý chất lượng sản phẩm, đảm bảo ổn địnhvà phát triển sản xuất, tạo dựng và đảm bảo uy tín, quyền lợi của doanh nghiệp, cũng như người tiêu dùng.

Nhà nước còn đặt ra những quy định chi tiết về mức chất lượng và tiêu chuẩn chất lượng tối ưu. Xác định cơ cấu kinh tế, cơ cấu mặt hàng điều này có tác động lớn tới chất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đưa ra một hệ thống giá cả quy định cho từng mặt hàng, ngành hàng như chính sách giá trần, giá sàn để bảo vệ lợi ích người tiêu dùng.

Các yếu tố văn hoá, phong tục tập quán, thói quen tiêu dùng.

Đây luôn được coi là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. ở từng khu vực thị trường sẽ có nhu cầu không giống nhau vì nó chịu sự chi phối của sở thích tiêu dùng quốc gia, dân tộc; tập quán, trình độ, văn hoá của người dân sẽ là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sức tiêu thụ của sản phẩm với các mức chất lượng khác nhau. Chính vì lẽ đó, doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác marketing để xác định chính xác nhu cầu về chất lượng ở từng đoạn thị trường, có như vậy mới có cơ sở để đảm bảo rằng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trên thị trường mục tiêu của doanh nghiệp.

Các nhân tố tác động tới chất lượng sản phẩm ở tầm vi mô.

Sản phẩm là kết quả của một quá trình biến đổi, do vậy chất lượng sản phẩm cũng là kết quả của quá trình. Mà một quá trình sản xuất lại gồm nhiều các công đoạn khác nhau. Trong mỗi công đoạn đó nó đều chịu sự chi phối của các nhân tố cơ bản như: Con người (Men); phương pháp tổ chức quản lý (Methods); thiết bị công nghệ(machines); nguyên, nhiên vật liệu(materials)- đó là điều ta không thể phủ nhận. Người ta còn gọi đó là “ quy tắc 4M”.

Nhóm yếu tố con người(Men).

Đây là yếu tố được coi là quyết định đến chất lượng sản phẩm. Con người quản lý và điều khiển máy móc- thiết bị, điều khiển và thực hiện mọi kế hoạch sản xuất. Thêm vào đó, con người còn trực tiếp lao động để tạo ra sản phẩm. Do vậy con người cần có trình độ nhất định về nhận thức, học vấn, am hiểu khoa học kỹ thuật có như vậy mới có thể điều khiển và chấp hành tốt quy trình công nghệ.

Dù cho chúng ta có máy móc công nghệ hiện đại đến nhường nào, dù cho nguyên vật liệu tốt đến đâu mà nếu con người không có ý thức trách nhiệm, làm bừa, làm ẩu thì có kiểm tra ngặt nghèo đến mấy thì sản phẩm làm ra cũng không thể có chất lượng tốt được. Thậm chí doanh nghiệp có tiến hành tự động hoá, cơ giới hoá toàn bộ quy trình công nghệ thì con người cũng không thể thiếu đặc biệt một số lĩnh vực mà máy móc không thể làm thay con người như nghiên cứu thị trường, ý tưởng thiết kế sản phẩm mới...

Nhóm yếu tố phương pháp tổ chức quản lý (Methods).

Các nghiệp vụ của vấn đề tổ chức quản lý để bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện qua việc thực hiện tổ chức quản lý lao động, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, tổ chức sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tổ chức quá trình tiêu thụ, tổ chức sửa chữa bảo hành....

Như vậy để có chất lượng sản phẩm tốt đáp ứng được nhu cầu thị trường các doanh nghiệp phải đặc biệt chú trọng tới công tác này vì bất cứ công việc nào làm không tốt thì tất sẽ cho kết quả chất lượng sản phẩm là xấu.

Nhóm yếu tố nguyên, nhiên vật liệu(Materials).

Muốn có sản phẩm tốt thì chất lượng nguyên vật liệu là một trong những yếu tố hình thành chất lượng sản phẩm phải có chất lượng cao. Đây là yếu tố cơ bản của đầu vào có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng sản phẩm. Vì nó tạo nên thực thể của sản phẩm, về mặt giá trị nó thường chiếm 60-:- 80% tỷ trọng trong giá thành sản phẩm.

Các nhà sản xuất tiêu thụ cần tạo ra cho mình những cơ sở cung cấp nguyên vật liệu ổn định, có chất lượng tốt, đảm bảo thời gian, đủ số lượng và cơ cấu. Giữa hai bên phải có hợp đồng cam kết về quyền lợi của mình trong việc thực hiện hợp đồng. Từ đó sẽ đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiến độ sản xuất đúng kế hoạch, cũng như giảm được nhiều thủ tục giao nhận, giảm chi phí sản xuất mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Nhóm yếu tố kỹ thuật công nghệ- Thiết bị (Machines).

Nếu như 3 yếu tố trên đều tốt cũng chưa đảm bảo rằng sản phẩm làm ra có chất lượng tốt khi kỹ thuật, thiết bị- Yếu tố hình thành nên chất lượng sản phẩm ở trạng thái yếu kém.

Máy móc, thíêt bị phải đảm bảo yêu cầu như: Đáp ứng tiến độ sản xuất, việc ngừng nghỉ vì trục trặc nằm trong giới hạn cho phép, độ chính xác cao,.... Về tổ chức phải có sự kiểm tra hoạt động của máy móc, bố trí vị trí cũng như thứ tự ưu tiên làm các công việc một cách hợp lý.

Theo quan điểm CNH gắn liền với HĐH chúng ta phải đi tắt đón đầu những công nghệ sản xuất mới thì sản phẩm của chúng ta mới có chất lượng tốt. Song cần lưu ý, công nghệ quá hiện đại sẽ gây lãng phí về vốn, công suất khai thác,... điều này sẽ không phù hợp với các doanh nghiệp nước ta khi vấn đề vốn đang là yếu tố gây trở lực lớn nhất.

Quá trình phân chia các yếu tố trên chỉ mang tính tương đối vì bản thân chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chúng tác động biện chứng với nhau trong một thể thống nhất- đó là một quy trình sản xuất.

Sơ đồ 4: Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.

Nhìn chung, nguyên vật liệu mua vào, tình trạng máy móc thiết bị khác nhau, các thao tác của công nhân có sai lệch kèm theo sự quản lý lỏng lẻo đều đan xen vào nhau gây lên thứ sản phẩm kém phẩm chất. Để hạn chế điều này, doanh nghiệp phải có giải pháp đồng bộ, lâu dài tiến tới sản phẩm làm ra không lỗi( Zezo defects) để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Trên đây là một số nhân tố quyết định ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, ta còn thấy một số yếu tố khác cũng có ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm như: Giá cả của hàng hoá( thể hiện chi phí quyết định giá thành và giá cả của sản phẩm. Đến lượt nó, giá cả phải có phù hợp với chất lượng sản phẩm, có đủ lực kích thích nâng cao chất lượng sản phẩm ); thu thập và xử lý thông tin...

Các sản phẩm được sản xuất ra và được tiêu dùng đều phải đạt mức yêu cầu nào đó về chất lượng. Mức độ yêu cầu này phụ thuộc vào: Thứ nhất là yêu cầu của khách hàng, sau nữa là các quy định về chất lượng sản phẩm của Nhà nước, tiếp đó là trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật hay trình độ sản xuất và trình độ nhận thức của dân cư.

Người tiêu dùng luôn có nhu cầu hiện tại và nhu cầu tương lai. Nhu cầu hiện tại và tương lai đều phụ thuộc vào cả khả năng sản xuất của nhà sản xuất và người tiêu dùng. Theo sự tác động hai chiều mà sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn.

Trong thực tiễn ta gặp rất ít sản phẩm chỉ có một chỉ tiêu chất lượng, mà thường có rất nhiều chỉ tiêu khác nhau. Ta có thể tập hợp một số chỉ tiêu sau để đánh gía chất lượng sản phẩm:

Nhóm chỉ tiêu sử dụng.

Đây là nhóm chỉ tiêu chất lượng sản phẩm mà người tiêu dùng khi mua hàng hay sử dụng để kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá.

- Chỉ tiêu thời gian hữu dụng của sản phẩm: Nó thể hiện tuổi thọ và độ bền của sản phẩm: Ví dụ như bóng điện sản xuất ra được xác định là thắp sáng được 1500 h.

- Chỉ tiêu mức độ an toàn trong sử dụng: Nó đặc trưng cho tính bảo đảm cho sự an toàn khi sản xuất và sức khoẻ, sinh mạng của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm. Chỉ tiêu này thường được quy định trong cả văn bản của Nhà nước trong việc quản lý chất lượng.

- Chỉ tiêu khả năng sửa chữa, thay thế các chi tiết. Chỉ tiêu này thường được sử dụng trong ngành cơ khí, điện tử... và rất được người tiêu dùng quan tâm vì hiện nay có rất nhiều hàng hoá chỉ sai hỏng một vài chi tiết nhỏ là máy móc không thể hoạt động được hoặc việc mua chi tiết để thay là rất khó khăn. Xác định được điều này sẽ là một lợi thế cho các doanh nghiệp phát huy khả năng dịch vụ hậu mãi (After sales).

- Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng: Được đánh gía qua sức sinh lợi và sự tiện lợi của sản phẩm. Điều này thể hiện tác dụng của sản phẩm qua quá trình khai thác sản phẩm, so với chi phí người tiêu dùng bỏ ra để có và sử dụng sản phẩm hay mức độ khai thác thực tế sản phẩm so với công suất tiềm năng của nó. Đây là chỉ tiêu khá tổng hợp mà nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng luôn tìm biện pháp nhằm nâng cao lợi ích/chi phí.

Nhóm chỉ tiêu kỹ thuật- công nghệ.

Bằng cách nào ta có thể kiểm tra, đánh giá về giá trị sử dụng của sản phẩm. Ta sẽ không có kết luận gì về chất lượng sản phẩm hàng hoá nếu như không nghiên cứu một số chỉ tiêu quan trọng sau:

- Chỉ tiêu về cơ lý hoá như khối lượng, thông số kỹ thuật, các thông số về độ bền, độ tin cậy, độ chính xác, an toàn khi sử dụng và sản xuất... mà hầu như mọi sản phẩm đều có. Các chỉ tiêu này thường được quy định trong văn bản tiêu chuẩn của cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, hợp đồng kinh tế...

- Chỉ tiêu về sinh hoá như mức độ ô nhiễm đến môi trường, khả năng toả nhiệt, giá trị dinh dưỡng, độ ẩm, độ mài mòn,...Tuỳ vào từng mặt hàng cụ thể và thành phần mỗi chỉ tiêu chiếm mà ta tiến hành kiểm tra các chỉ tiêu này ở một mức độ nhất định, đặc biệt chú ý đến các chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.

Nhóm chỉ tiêu hình dáng trang trí thẩm mỹ.

Các chỉ tiêu này bao gồm: chỉ tiêu về hình dạng sản phẩm, sự phối hợp các yếu tố tạo hình, tính chất đường nét, hoa văn, màu sắc thời trang...

Đây là nhóm các chỉ tiêu mà chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của nhiều người, khó được lượng hoá và vì vậy đòi hỏi cán bộ kiểm nghiệm hay người tiêu dùng phải có kinh nghiệm, am hiểu thẩm mỹ. Phần lớn các sản phẩm mang đặc trưng này là các sản phẩm về nghệ thuật, tranh ảnh, quần áo thời trang, đồ trang sức...

Chúng ta không có đơn vị đo sự truyền cảm, hấp dẫn hay cái đẹp của sản phẩm song ta có thể nhận biết qua các thông tin mà sản phẩm mang lại đó là:

Bản chất của sản phẩm phải có sự thống nhất hữu cơ giữa các chỉ tiêu, bộ phận tạo thành một hình khối hài hoà, không gượng ép, kệch cỡm.

Sản phẩm được tạo ra từ những chất lượng nguyên vật liệu cao, quá trình sản xuất tinh xảo hiện đại.

Sản phẩm mang sắc thái riêng song phải phù hợp với xu hướng tiến bộ chung của nhu cầu lành mạnh.

Màu sắc của sản phẩm phải phù hợp với chính công dụng của sản phẩm cũng như môi trường sử dụng sản phẩm đó.

Ta nhận thấy, nhiều sản phẩm nhờ tính độc đáo của các chỉ tiêu này mà đang có lợi thế so sánh trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như trên thế giới. Việc kiểm tra, đánh giá đúng sẽ tác động tích cực tới các chỉ tiêu sử dụng, kỹ thuật- công nghệ.

Nhóm các chỉ tiêu kinh tế.

Các chỉ tiêu kinh tế, nhóm này bao gồm chi phí sản xuất, chi phí cho quá trình sử dụng, chi phí cho quá trình bảo trì bảo dưỡng, giá cả.... Đây là chỉ tiêu quan trọng luôn được nhà sản xuất và người tiêu dùng sử dụng để đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá. Chi phí của nhà sản xuất và chi phí mua, sử dụng sản phẩm của người tiêu dùng có quan hệ mật thiết với nhau. Khi nhà sản xuất giảm được chi phí sản xuất có thể giảm được giá bán, mở rộng thị trường tất nhiên sẽ có lợi cho cả hai và ngược lại.

Nếu như doanh nghiệp đang tìm và muốn giữ thị phần thị trường của mình thì chưa nên quan tâm quá vội đến các chỉ tiêu chi phí sản xuất mà vấn đề đặt ra ở đây phải là chất lượng thậm chí có thể đặt ra giá cả hoà vốn hoặc lợi nhuận thấp. Vì trong ngắn hạn không dễ gì giảm nhiều giá thành sản phẩm mà chất lượng sản phẩm không đổi hay tăng lên được.

Trên đây ta đã trình bày các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Điều đáng lưu ý là khi sử dụng các chỉ tiêu này phải gắn với một sản phẩm cụ thể, với các điều kiện về kinh tế, quan hệ cung cầu, trình độ phát triển của KH-KT... đặt trong mối quan hệ đó ta sẽ có cái nhìn xác đáng về chất lượng sản phẩm hàng hoá.

Khi chúng ta coi chất lượng là trên hết sẽ làm cho chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp đẩy lên ở mức cao, nó cũng đem lại năng suất lao động lớn, đến lượt nó lại tạo thuận lợi cho việc giảm chi phí, tăng thu nhập. Đảm bảo chất lượng của sản phẩm phải đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng mà họ đã tin tưởng, mua và sử dụng sản phẩm hàng hoá của công ty. Đây chính là trách nhiệm của các nhà sản xuất đối với người tiêu dùng. Để có được sự tín nhiệm của khách hàng về sản phẩm của mình phải mất rất nhiều thời gian hoạt động đảm bảo chất lượng sản phẩm có khi đến hàng chục năm.

Bên cạnh yếu tố đảm bảo chất lượng sản phẩm ta phải tiến hành nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì yêu cầu của khách hàng, sự tiến bộ của KH-KT, xuất phát từ đặc điểm của kinh tế thị trường. Cải tiến chất lượng sản phẩm là từng bước phải nâng cao, hoàn thiện hơn chất lượng và làm thay đổi lợi nhuận doanh nghiệp, lợi ích người tiêu dùng. Sự đảm bảo chất lượng sản phẩm chỉ có thể đạt được khi doanh nghiệp có sự cải tiến, phát triển sản phẩm mới và cũng như giáo sư hàng đầu về quản lý chất lượng sản phẩm của Nhật- ông KAORU IXIKAWA nói: “ Nếu không có khả năng triển khai những dạng sản phẩm mới thì hãng có nguy cơ phá sản. Việc triển khai dạng sản phẩm mới phải là mối quan tâm quan trọng nhất của hãng”. Ta có thể cải tiến chất lượng sản phẩm hàng hoá theo một chu trình lập lại sau: Sau mỗi chu kỳ này chất lượng sản phẩm sẽ không ngừng được nâng lên vậy nó mang lại hiệu quả gì đối với toàn xã hội ?.

Sơ đồ 6: Chu trình cải tiến chất lượng sản phẩm.

Trong điều kiện khi mà đời sống của con người đã tăng cao, khi người tiêu dùng muốn loại trừ những phiền hà, cản trở do sản phẩm kém chất lượng gây ra thì vấn đề phải được giải quyết trước hết là chất lượng sản phẩm. Để thu hút được người tiêu dùng, các hãng sản xuất phải tập trung mọi nỗ lực để giải quyết vấn đề chất lượng. Có thể nói chất lượng là yếu tố hàng đầu trong cuộc cạnh tranh, giá cả chỉ là yếu tố sau nó.

Việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nhà sản xuất, người tiêu dùng điều này thể hiện:

9.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá sẽ làm tăng giá trị sử dụng của sản phẩm như các chỉ tiêu tuổi thọ, độ an toàn,... trong quá trình sử dụng khai thác sản phẩm. Điều này làm tăng lợi ích của người tiêu dùng, giảm các chi phí cho việc mua và sử dụng sản phẩm. Tất nhiên tạo nên niềm tin của khách hàng về sản phẩm của công ty mà đây là một lợi thế rất lớn.

9.2. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm giảm ô nhiễm môi trường, giảm các hiện tượng hiệu ứng tiêu cực, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Từ đó có điều kiện để mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động và nâng cao được đời sống xã hội, giải quyết được nhiều vấn đề cấp bách trong xã hội như lao động, việc làm,...

9.3. nâng cao chất lượng sản phẩm là nhân tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp trên thị trường. Nhờ nó mà hàng hoá của doanh nghiệp có sức cạnh tranh cao, thị phần ngày càng mở rộng.

9.4. Nâng cao chất lượng sản phẩm khẳng định uy tín và vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Đó là cơ sở quan trọng để mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là điều kiện tái sản xuất mở rộng, là cơ sở cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.

9.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, tăng lợi nhuận từ đó đời sống công nhân viên của công ty tăng lên tạo ra một tâm lý yên tâm lao động sản xuất và lại kích thích tăng năng suất lao động, chất lượng lao động.

Tóm lại, chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề đặt lên hàng đầu đối với các nhà sản xuất, từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm đang trở thành nhiệm vụ then chốt trong kinh doanh. Vì thế việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chất lượng mang tính rất quan trọng. Nhìn nhận đúng về chất lượng sản phẩm sẽ giúp các nhà quản lý nói chung và các nhà quản lý chất lượng nói riêng có các biện pháp quản lý hiện đại để đạt hiệu quả cao trong quản lý sản xuất kinh doanh.

0