24/05/2018, 17:17

Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Hiệu quả sử dụng vốn là gì? Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình SXKD với tổng chi phí thấp ...

Hiệu quả sử dụng vốn là gì?

Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, vật lực, tài lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình SXKD với tổng chi phí thấp nhất. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh tế là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ nền sản xuất nào nói chung và mối quan tâm của DN nói riêng, đặc biệt nó đang là vấn đề cấp bách mang tính thời sự đối với các DN nhà nước Việt nam hiện nay. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vừa là câu hỏi, vừa là thách thức đối với các DN hiện nay. Bất kỳ một doanh nghiệp SXKD nào cũng có hàm sản xuất dạng:

Q = f (K, L) trong đó:

K: là vốn.

L: là lao động.

Vì vậy, kết quả SXKD của các DN có quan hệ hàm với các yếu tố tài nguyên, vốn, công nghệ... Xét trong tầm vi mô, với một DN trong ngắn hạn thì các nguồn lực đầu vào này bị giới hạn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm biện pháp nhằm khai thác và sử dụng vốn, sử dụng tối đa các nguồn lực sẵn có của mình, trên cơ sở đó so sánh và lựa chọn phương án SXKD tốt nhất cho doanh nghiệp mình.

Vậy hiệu quả sử dụng vốn là gì ? Để hiểu được ta phải hiểu được hiệu quả là gì?

  • Hiệu quả của bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng đều thể hiện mối quan hệ giữa “kết quả sản xuất và chi phí bỏ ra”.

- Về mặt đinh lượng: Hiệu quả kinh tế của việc thực hiện mỗi nhiệm vụ kinh tế xã hội biểu hiện ở mối tương quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Người ta chỉ thu được hiệu quả khi kết quả đầu ra lớn hơn chi phí đầu vào. Hiệu quả càng lớn chênh lệch này càng cao.

- Về mặt định tính: Hiệu quả kinh tế cao biểu hiện sự cố gắng nỗ lực, trình độ quản lý của mỗi khâu, mỗi cấp trong hệ thống công nghiệp, sự gắn bó của việc giải quyết những yêu cầu và mục tiêu kinh tế với những yêu cầu và mục tiêu chính trị - xã hội.

Có rất nhiều cách phân loại hiệu quả kinh tế khác nhau, nhưng ở đây em chỉ đề cập đến vấn đề nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn tại doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể hiểu hiệu quả sử dụng vốn như sau:

Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp: Là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời tối đa với chi phí thấp nhất.

Hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề phức tạp có liên quan tới tất cả các yếu tố của quá trình SXKD (ĐTLĐ, TLLĐ) cho nên doanh nghiệp chỉ có thể nâng cao hiệu quả trên cơ sở sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả cao trong quá trình kinh doanh thì doanh nghiệp phải giải quyết được các vấn đề như: đảm bảo tiết kiệm, huy động thêm để mở rộng hoạt động SXKD của mình và DN phải đạt được các mục tiêu đề ra trong qúa trình sử dụng vốn của mình.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp

Trước đây trong cơ chế bao cấp, chi phí và doanh thu do nhà nước ấn định là chủ yếu. Quan hệ giữa nhà nước và DN dựa trên nguyên tắc lãi nhà nước thu, lỗ nhà nước bù. Nhà nước giao kế hoạch mang tính pháp định về mặt hàng trong kinh doanh, nguồn hàng, nơi tiêu thụ và doanh thu. Vì vậy, DN không thể và không cần thiết phải phát huy tính sáng tạo, chủ động của mình trong sản xuất kinh doanh. Việc hạch toán kinh doanh mang tính chất hình thức. Đa số các DN lãi giả lỗ thật, nguy cơ ảnh hưởng đến nền kinh tế ngày càng tăng, nhiều DN làm ăn kém hiệu quả vẫn được nhà nước bù lỗ để duy trì.

Chuyển sang nền kinh tế thị trường thì điều đó không còn phù hợp nữa, sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế, giữa các DN thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cơ bản để một DN tồn tại và phát triển. Hơn thế nữa, điều đó sẽ giúp cho DN có khả năng cạnh tranh với các DN khác, với các DN nước ngoài, tạo uy tín trên thị trường.

Các doanh nghiệp Việt nam với số vốn tự có hay vốn vay, vốn điều lệ, đều không phải là số vốn cho không, không phải trả lãi mà đều phải hoặc là trả cổ tức, hoặc là nộp thuế vốn và hạch toán bảo toàn vốn. Vậy số vốn này lớn lên bao nhiêu là đủ, là hợp lý, là hiệu quả cho quá trình SXKD của doanh nghiệp ? Mặt khác, trong quá trình kinh doanh, một doanh nghiệp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có sức tiêu thụ lớn, thị trường ngày càng ổn định và mở rộng, nhu cầu của khách hàng ngày càng lớn thì đương nhiên là cần nhiều tiền vốn để phát trtiển kinh doanh. Do đó, nếu công tác quản trị và điều hành không tốt thì hoặc là phát hành thêm cổ phiếu để gọi vốn hoặc là không biết xoay xở ra sao, có khi bị “kẹt” vốn nặng... và có khi đưa doanh nghiệp đến chỗ phá sản vì tưởng rằng doanh nghiệp quá thành đạt. Để đánh giá chính xác hơn hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, ta có thể dựa vào các nhóm chỉ tiêu đo lường sau đây:

Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp

Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Nó thể hiện mối quan hệ giữa kết quả kinh doanh trong kỳ và số vốn kinh doanh bình quân. Ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:

Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp.

Hv = DV size 12{ { {D} over {V} } } {}

Trong đó:

Hv - Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp.

D - Doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ.

V - Toàn bộ vốn sử dụng bình quân trong kỳ.

Vốn của doanh nghiệp bao gồm: vốn cố định và vốn lưu động, do đó ta có các chỉ tiêu cụ thể sau:

Hiệu quả sử dụng vốn cố định

HVCĐ = DVcd size 12{ { {D} over {V rSub { size 8{"cd"} } } } } {}

Trong đó: HVCĐ : Hiệu quả sử dụng VCĐ

V : Vốn cố định bình quân sử dụng trong kỳ

Hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Trong đó: HVLĐ: Hiệu quả sử dụng VLĐ

V: Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ.

Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cho biết: Một đồng vốn của doanh nghiệp sử dụng bình quân trong kỳ làm ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao, đồng thời chỉ tiêu này còn cho biết doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì phải quản lý chặt chẽ và tiết kiệm về nguồn vốn hiện có của mình.

Tỷ suất lợi nhuận

Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Tuy nhiên, để phản ánh chính xác hơn ta cần xem xét đến cả số tuyệt đối và số tương đối thông qua việc so sánh giữa tổng số vốn bỏ ra với số lợi nhuận thu được trong kỳ.

Các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận của toàn bộ vốn kinh doanh.

TLN ∑Vkd size 12{ Sum { ital "Vkd"} } {} = ∑LNST∑Vkd size 12{ { { Sum { ital "LNST"} } over { Sum { ital "Vkd"} } } } {}x100

Trong đó:

TLN ∑Vkd size 12{ Sum { ital "Vkd"} } {} - Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn kinh doanh.

LNST - Tổng lợi nhuận sau thuế trong kỳ.

∑Vkd size 12{ Sum { ital "Vkd"} } {} - Tổng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ.

Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động:

TLN VLĐ = ∑LNST∑Vld size 12{ { { Sum { ital "LNST"} } over { Sum { ital "Vld"} } } } {}x100

Trong đó: V: Tổng vốn lưu động bình quân trong kỳ.

TLNVLĐ: Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động

Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định, T LNVCĐ.

T LNVCĐ = ∑LNTSVCD size 12{ { { Sum { ital "LNTS"} } over {V rSub { size 8{ ital "CD"} } } } } {} x100

Trong đó: V - Tổng vốn cố địng bình quân trong kỳ.

Các chỉ tiêu này cho biết cứ 100 đồng vốn kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Tốc độ luân chuyển VLĐ

Là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng vốn của DN. Nó bao gồm các chỉ tiêu sau:

Số vòng quay của vốn lưu động trong kỳ:

Là số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ, nó đươc xác định như sau:

C = DVld size 12{ { {D} over {V"" lSub { size 8{ ital "ld"} } } } } {}

Trong đó: C - Số vòng quay vốn lưu động.

D - Doanh thu thuần trong kỳ.

V - Vốn lưu động bình quân trong kỳ.

Vốn lưu động bình quân tháng, quý, năm được tính như sau:

Vốn LĐBQ tháng = (V đầu tháng + V cuối tháng)/2

Vốn LĐBQ quý, năm = (VLĐ1/2 + VLĐ2 +....+VLĐn-1+ VLĐn/2)/(n-1).

Trong đó: VLĐ1,.. VLĐn - Vốn lưu động hiện có vào đầu tháng.

Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ VLĐ của doanh nghiệp luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, doanh nghiệp cần ít vốn mà tỷ suất lợi nhuận lại cao.

Số ngày luân chuyển:

Là số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động.

N = TC size 12{ { {T} over {C} } } {} = TxVLDD size 12{ { { ital "TxV" rSub { size 8{ ital "LD"} } } over {D} } } {}

Trong đó:

N - Số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn lưu động.

T - Số ngày trong kỳ.

Hệ số đảm nhiệm LVĐ:

H = VLDD size 12{ { {V rSub { size 8{ ital "LD"} } } over {D} } } {}

Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp cần bao nhiêu đồng VLĐ. Hệ số này càng nhỏ càng tốt.

Mức tiết kiệm VLĐ:

Nó thể hiện trong quá trình sử dụng VLĐ do sự thay đổi tốc độ quay của nó. Có hai cách xác định:

Cách 1: M-+ = VLĐ1 - D1C0 size 12{ { {D rSub { size 8{1} } } over {C rSub { size 8{0} } } } } {}

Trong đó:

M-+ - Mức tiết kiệm hay lãng phí VLĐ.

VLĐ1 - Vốn lưu động bình quân kỳ này.

D1 - Doanh thu thuần bình quân kỳ này.

0 - Số vòng quay vốn lưu động kỳ trước.

Cách 2: M+ = (N1 - N0) x D1T size 12{ { {D rSub { size 8{1} } } over {T} } } {}

Trong đó:

N1, N0 - Thời gian luân chuyển VLĐ kỳ này, kỳ trước

T - Số ngày trong kỳ

Phân tích tình hình và khả năng thanh toán

Phân tích tình hình thanh toán: Chính là xem xét mức độ biến thiên của các khoản phải thu, phải trả để từ đó tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của việc tăng các khoản nợ đến hạn chưa đòi được.

Phân tích khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán của DN phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu sau:

Ngoài ra, ta còn sử dụng chỉ tiêu về cơ cấu tài chính như:

Đó là các chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn tại các doanh nghiệp thì chúng ta cần phải xem xét đến các nhân tố ảnh hưởng đến nó.

Cơ cấu vốn

Cơ cấu vốn là thuật ngữ dùng để chỉ một doanh nhiệp sử dụng các nguồn vốn khác nhau với một tỷ lệ nào đó của mỗi nguồn để tài trợ cho tổng tài sản của nó.

Các doanh nghiệp khác nhau sẽ có cơ cấu vốn khác nhau, do đó chi phí vốn sẽ khác nhau. Cơ cấu vốn có liên quan đến việc tính chi phí vốn. Để sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động thì ban quản lý phải tìm ra một cơ cấu vốn phù hợp với tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp.

Chi phí vốn

Cũng như các yếu tố đầu vào khác, muốn có vốn để sử dụng thì chúng ta phải trả chi phí. Như vậy, ta có thể hiểu một cách khái quát về chi phí vốn như sau:

Chi phí vốn tức là chi phí phải trả cho việc huy động và sử dụng vốn. Nó được đo bằng tỷ suất doanh lợi mà doanh nghiệp cần phải đạt được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi tỷ lệ sinh lời cần thiết dành cho cổ đông cổ phiếu thường hay vốn tự có của doanh nghiệp.

Nguồn vốn huy động cho các doanh nghiệp khác nhau sẽ có chi phí vốn khác nhau. Đối với các doanh nghiệp, nguồn vốn được huy động bởi các nguồn sau:

  • Vốn do Nhà nước cấp.
  • Vốn vay Ngân hàng.
  • Lợi nhuận giữ lại.
  • Vốn vay của đơn vị khác.
  • Vốn liên doanh - liên kết.

Nhưng ở đây ta chỉ xét đến chi phí của vốn vay Ngân hàng và vốn ngân sách cấp.

Chi phí của vốn vay Ngân Hàng bao gồm:

- Chi phí của nợ vay trước thuế, Kd: Là lãi tiền vay, được đo bằng tỷ lệ sinh lời trên vốn vay đủ để trả lãi cho nợ vay.

Ví dụ:

Khi DN vay tiền với lãi suất 10% thì chi phí của vốn vay trước thuế là 10%.

- Chi phí của nợ vay sau thuế, Kd(1-t): Vì chi phí trả lãi cho nợ vay được nằm trong chi phí hợp lý, hợp lệ của doanh nghiệp để tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên lãi suất sau thuế mà doanh nghiệp phải trả thấp hơn tỷ lệ sinh lời tại thời điểm đáo hạn của những trái phiếu.

Ví dụ: DN có thu nhập trước thuế 100T, thuế TNDN là 32%, vay nợ với lãi suất 10%. (Vay 40T).

Khi đó, chi phí sau thuế của nợ vay là:

Kd(1 - t) = 10% (1 - 0,32) = 6,8%

Chi phí sau thuế của nợ được sử dụng để tính chi phí bình quân gia quyền của vốn.

Chi phí liên quan đến vốn ngân sách cấp:

Theo nghị định 59/CP về thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hàng năm phải trả 6% trên tổng số vốn Nhà nước cấp cho doanh nghiệp. Do vậy, 6% được coi là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để trả cho khoản vốn mà Nhà nước cấp cho mình.

Từ đó, ta tính chi phí bình quân gia quyền của vốn được xác định như sau:

WACC = Wd.Kd(1-t) + WS.KS + WP.KP

Trong đó:

- Wd, WS, WP: là tỷ trọng của nợ vay, lợi nhuận giữ lại và cổ phiếu ưu tiên.

- Ks là chi phí của lợi nhuận giữ lại.

- Kp là chi phí của cổ phiếu ưu tiên.

WACC ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải tạo ra được tỷ suất lợi nhuận lớn hơn hoặc bằng WACC. Doanh nghiệp sẽ xác định được cho mình một cơ cấu vốn tối ưu (là cơ cấu vốn làm cân bằng tối đa giữa rủi ro và lãi suất, làm cho chi phí bình quân gia quyền của vốn thấp nhất), khi đó hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ cao hơn.

Thị trường của doanh nghiệp

Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong điều kiện hiện nay cũng đều chịu tác động của thị trường. Nếu hoạt động của doanh nghiệp mà không được thị trường chấp nhận thì doanh nghiệp đó coi như không tồn tại. Vậy nhân tố nào đảm bảo cho doanh nghiệp được xã hội công nhận. Có rất nhiều yếu tố nhưng yếu tố không thể thiếu được phải kể đến là vốn của doanh nghiệp.

Doanh nghiệp mạnh hay yếu, có khả năng cạnh tranh được với các loại hình doanh nghiệp khác hay không thì phần lớn là bắt đầu từ nguồn vốn mà ra. Vốn giúp cho doanh nghiệp bước vào hoạt động, thì song song với nó là nhân tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp - đó là thị trường. Thị trường tác động đến cả “đầu ra” và “đầu vào” của doanh nghiệp. Nếu thị trường ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển và có nhiều cơ hội hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá. Ngược lại nếu thị trường biến động thường xuyên liên tục sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp như: sự biến động về giá cả, sự tiêu thụ hàng hoá, sự thay đổi nhu cầu tiêu dùng, sở thích của các tác nhân thị trường... cuối cùng là tác động đến chi phí của doanh nghiệp, mà hiệu quả sử dụng vốn là yếu tố được xem xét và quan tâm hàng đầu đối với nhà quản lý.

Mặt khác, thị trường còn đóng vai trò là nơi tái tạo nguồn vốn để doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất kinh doanh mở rộng trên cơ sở đẩy mạnh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Nguồn vốn

Nói đến hoạt động của doanh nghiệp ta nghĩ ngay đến vấn đề vốn nhiều hay ít sẽ tạo ra mức doanh thu lớn hay nhỏ. Như vậy, với một mức doanh thu nào đó, đòi hỏi phải có sự cân bằng tương ứng với một lượng vốn.

Tuy nhiên, mối quan hệ đó không phải lúc nào cũng tỷ lệ thuận với nhau, điều đó còn phụ thuộc vào hiệu quả quản lý, sử dụng vốn kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp có một đặc điểm khác nhau, nhưng tóm lại nó thường bao gồm các khoản vốn sau: Vốn vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vốn chủ sở hữu, vốn ngân sách cấp, vốn liên doanh - liên kết và nhiều nguồn vốn khác. Như vậy, vốn sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn như thế nào?

Đối với nguồn vốn vay Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.

Để có được nguồn vốn sử dụng thì doanh nghiệp phải bỏ chi phí ra trả cho việc sử dụng nó. Tỷ lệ này thường xuyên thay đổi tuỳ thuộc vào trạng thái của nền kinh tế và số lượng vốn vay của doanh nghiệp. Mặt khác, doanh nghiệp không thể vay bao nhiêu tuỳ thích, mà nó phụ thuộc vào hạn mức tín dụng. Nếu vượt quá hạn mức thì Ngân hàng sẽ không cho vay nữa. Trước khi tiến hành huy động vốn thì doanh nghiệp phải tính đến yếu tố chi phí mà mình phải bỏ ra để trả cho việc huy động đó. Chi phí này lại nằm trong công tác về sử dụng vốn.

Đối với nguồn vốn chủ sở hữu :

Như đã nêu ở trên, DNNN phải làm ăn có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn thì Nhà nước mới cấp phát vốn cho doanh nghiệp. Còn đối với công ty cổ phần thì đảm bảo được tỷ suất doanh lợi cao hơn tỷ lệ lợi tức yêu cầu của các nhà đầu tư... Để có được những nguồn vốn đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải đạt được mục tiêu kinh doanh của mình. Để đạt được mục tiêu kinh doanh thì doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả sử dụng vốn.

Các nguồn vốn khác.

Các nguồn vốn khác bao gồm: Vốn chiếm dụng của cá nhân, đơn vị khác trong và ngoài doanh nghiệp, vốn liên doanh - liên kết, vốn FDI, ODA... Khi lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho nhu cầu vốn của mình, các doanh nghiệp phải cân nhắc, so sánh lợi nhuận đem lại và chi phí bỏ ra để có được chúng, từ đó xác định cho mình một cơ cấu vốn tối ưu với chi phí thấp nhất. Nếu chi phí vốn cao sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn.

Rủi ro kinh doanh

Trước hết ta phải hiểu rủi ro là gì?

- Rủi ro: Là các biến cố không may xảy ra mà con người không thể lường trước được. Rủi ro luôn đi liền với hoạt động kinh doanh. Trong kinh doanh bao gồm các loại rủi ro sau: Rủi ro tài chính (rủi ro do sử dụng nợ), rủi ro kinh doanh (rủi ro do không sử dụng nợ vay), rủi ro trong quá trình sử dụng tài sản, vận chuyển hàng hoá...

Vậy rủi ro kinh doanh là gì?

- Là rủi ro cố hữu trong tài sản của doanh nghiệp, trong trường hợp doanh nghiệp không sử dụng nợ vay. Rủi ro kinh doanh càng lớn thì tỷ lệ nợ tối ưu càng thấp.

Khi các rủi ro xảy ra dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bị mất uy tín, mất bạn hàng... cuối cùng là thất bại trong kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn kém.

Muốn thành công trong kinh doanh các doanh nghiệp phải biết chấp nhận rủi ro, phải biết đúng hướng đầu tư, xem rủi ro nào có thể chấp nhận được, rủi ro nào không thể chấp nhận được.

Các nhân tố khác

Nhân tố con người:

Là yếu tố quyết định nhất trong việc đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có trong tay một đội ngũ cán bộ công nhân có năng lực, trình độ cao giàu kinh nghiệm làm việc, khả năng tiếp thu nhanh những công nghệ hiện đại, có tính sáng tạo... sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp và ngược lại. Bên cạnh đó, với một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có đủ năng lực, khả năng, sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Vì với đội ngũ này, doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình một phương án kinh doanh tốt nhất, biết tận dụng triệt để nguồn lực sẵn có, xây dựng mối quan hệ tốt với khách hàng, bạn hàng... tạo được một ê kíp làm việc từ trên xuống dưới đoàn kết, ăn ý và có hiệu quả. Ngoài ra, trình độ quản lý về mặt tài chính hết sức quan trọng, quy trình hạch toán của doanh nghiệp có phù hợp, số liệu kế toán có chính xác thì quyết định tài chính của của người lãnh đạo của doanh nghiệp mới có cơ sở khoa học. Việc thu chi phải rõ ràng, đúng tiến độ, kịp thời, tiết kiệm mới nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cho doanh nghiệp. Việc quản lý hàng tồn kho, quản lý khâu sản xuất, tiêu thụ cũng hết sức quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho DN.

Cơ chế quản lý và các chính sách của Đảng, Nhà nước.

Đây là một trong những nhân tố khách quan tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp hoạt động, do đó doanh nghiệp phải chấp hành những chế độ, quy định của Nhà nước. Bất kỳ sự thay đổi nào trong cơ chế quản lý của Nhà nước đều tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn ngày 1/1/1999 Nhà nước ban hành và áp dụng luật thuế giá trị gia tăng đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp.

Một cơ chế quản lý ổn định, thích hợp với các loại hình doanh nghiệp sẽ là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, giúp cho họ yên tâm khi tiến hành sản xuất kinh doanh, dồn hết năng lực sẵn có của mình vào kinh doanh mà không sợ sự biến động của thị trường.

Ngoài những yếu tố kể trên thì hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp còn chịu ảnh hưởng của nhân tố khác như: Mối quan hệ của doanh nghiệp với các bạn hàng, môi trường cạnh tranh, sản phẩm của doanh nghiệp...

Để hoạt động của doanh nghiệp thực sự có hiệu quả thì chúng ta phải tìm cách hạn chế tốt nhất những nhân tố gây ảnh hưởng không tốt tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và phát huy mặt tích cực, nguồn lực sẵn có với phương án kinh doanh tốt nhất sẽ đem lại sự thành công trong kinh doanh cho doanh nghiệp.

0