Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như: Bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết như sau: ...
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như:
Bán chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết như sau:
Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định.
Như vậy chúng ta có thể hiểu về tín dụng như sau:
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả lẫn nhau.
Theo các nhà kinh tế: tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
Một định nghĩa khác về tín dụng: Đó là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ hay người cho vay) chu cấp tiền hoặc hàng hoá hoặc dịch vụ dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai ở phía bên kia.
Từ các định nghĩa trên ta thấy có yếu tố thời gian vì vậy sẽ có rủi ro, bất trắc và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên dựa vào sự tín nhiệm, sử dụng tín nhiệm của nhau nên có danh từ tín dụng.
Tín dụng ngân hàng (TDNH) là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý, các hành vi TDNH có cùng một logic kinh tế: hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng đã tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, bảo chứng…). Luật ngân hàng các nước định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghệp vụ tín dụng bất cứ tác động nào mà qua đó, một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng hoặc cam kết bằng chữ ký cho một người này như bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp:
+ Cho vay tiền.
+ Tín dụng dựa trên việc nhượng trái quyền.
+ Tín dụng chữ ký.
Có thể hiểu tổng quát: TDNH là hình thức tín dụng có sự tham gia của các ngân hàng trung gian, đóng vai trò là người trung gian trong hoạt động tín dụng này các ngân hàng sẽ thực hiện hoạt động huy động vốn (vốn này là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế) sau đó sử dụng vốn huy động đó cho vay.
Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện, chẳng hạn 2 người thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy một sự chuyên nghiệp đã xảy ra, và ngày nay khi nói đến tín dụng người ta nghĩ ngay tới các ngân hàng. Vì đơn giản đây là một tổ chức có những nghiệp vụ cụ thể, được trang bị hiện đại với sự đáp ứng nhu cầu nhanh nhất.
Tín dụng tài trợ xuất khẩu: là việc cung cấp cho vay để giúp doanh nghiệp thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, chế biến hàng xuất khẩu.
Mục đích của tín dụng tài trợ xuất khẩu là đẩy mạnh sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu. Đây còn là một kênh tái tạo ngoai tệ để phục vụ hoạt động nhập khẩu của ngân hàng.
Tín dụng tài trợ nhập khẩu: là việc cung cấp các khoản vay (ngắn, trung, dài hạn) để giúp doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu cần thiết phục vụ sản xuất kinh doanh.
Mục đích của tín dụng tài trợ nhập khẩu là cho vay để giúp các doanh nghiệp nhập nguyên liệu , vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất…
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề quan trọng. Thị trường thương mại thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh ra quan hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của các ngân hàng.
Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết kỹ thuật và chỗ dựa tài chính trong lĩnh vực quan trọng này.
Có thể nói sự ra đời của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với nhau.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động hỗ trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú:
Hình thức đơn giản đầu tiên là ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các đơn vị nhập khẩu như cho vay để bổ sung vốn lưu động, thu mua chế biến sản xuất hàng xuất khẩu theo các hợp đồng đã được ký kết, cho vay để thanh toán các nguyên liệu, hàng hoá, vật tư nhập từ nước ngoài.
Từ hình thức cho vay ngắn hạn là chủ yếu, ngân hàng đã mở rộng trung, dài hạn để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Ngân hàng cho vay để mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Ngân hàng còn thực hiện cho vay gián tiếp, đứng ra bảo lãnh để vay vốn nước ngoài cho các đơn vị xuất nhập khẩu, nhờ đó các doanh nghiệp có thể vay vốn mà không phải thế chấp hay cầm cố tài sản, bảo lãnh mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh hợp đồng, .v.v..
Nếu doanh nghiệp có hối phiếu trong tay có thể đưa đến ngân hàng chiết khấu cũng như các chứng từ có giá trị thanh toán khác. Ngân hàng sẽ mua lại bộ chứng từ và có quyền đòi tiền nhà nhập khẩu theo hối phiếu. Trường hợp nhà nhà xuất khảu có những hợp đồng xuất liên tục và dài hạn theo định kỳ với điều kiện thanh toán trả chậm, nhưng có nhu cầu vốn ngay, nhà xuất khẩu bán các khoản thanh toán chưa đến hạn cho ngân hàng. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ thu tiền từ nhà nhập khẩu, đây chính là hình thức tín dụng bao thanh toán.
Như vậy, do trình độ kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán ngày càng phát triển, các phương thức thanh toán quốc tế ngày càng đa dạng, nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu phát triển dưới nhiều hình thức ngày càng đa dạng, phục vụ tích cực và có hiệu quả cho hoạt động xuất nhập khẩu.