IV. Khúc ruột miền Trung
Nước non nghìn dặm ra đi cái tình chi... Con đường quốc lộ số một, xuyên suốt Bắc - Nam, từ Đồng Đăng đến Cà Mau, có đến hai ngàn năm trăm ki lô mét, qua bao nhiêu dòng sông, bao nhiêu đèo, mỗi chúng ta ít nhất trong cuộc đời cũng một lần phải đi cho được đoạn Hà Nội - Thành phố Hồ Chí ...
Nước non nghìn dặm ra đi
cái tình chi...
Con đường quốc lộ số một, xuyên suốt Bắc - Nam, từ Đồng Đăng đến Cà Mau, có đến hai ngàn năm trăm ki lô mét, qua bao nhiêu dòng sông, bao nhiêu đèo, mỗi chúng ta ít nhất trong cuộc đời cũng một lần phải đi cho được đoạn Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh (1750km), từ đồng bằng sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long, đi lại con đường cha ông đã đi cả nghìn năm, từ đất tổ đến Đồng Nai ngàn dặm xa xôi. Một con đường đầy gian lao thử thách, thiên nhiên hình như lúc nào cũng muốn chặn đứng bước đi của con người, và kẻ địch bao lần mưu đồ bóp nghẹt đất nước ngay ở khúc giữa, nơi bị kẹp giữa biển Đông và Trường Sơn, chỉ có một hành lang eo hẹp không đến năm mươi ki lô mét).
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Dân tộc ta đã kiên cường vượt qua phá qua đèo, bẻ gãy âm mưu của địch, rồi trên con đường nghìn dặm mang theo truyền thống Đông Sơn và Thăng Long, rồi tiếp xúc với cảnh thiên nhiên mới, với văn minh các dân tộc phía Nam, tô điểm cho văn hóa dân tộc những sắc thái mới.
TỪ TAM ĐIỆP ĐẾN ĐÈO NGANG
Phía nam Hà Nội một trăm ki lô mét, qua dãy núi đá vôi, một đèo, một đèo lại một đèo, đây là Tam Điệp, nay mới mọc lên một thị xã còn giữ di tích nơi vua Quang Trung cho quân nghỉ ngơi trước lúc lại tiến lên đại phá quân Thanh năm 1789. Nhớ lại tướng Ngô Văn Sở lúc quân Thanh xông tới, theo lời khuyên của Ngô Thì Nhậm bỏ thành Thăng Long rút quân về Tam Điệp, ngay ngáy là sẽ bị trị tội bỏ thành cho giặc, không ngờ lúc Nguyễn Huệ đến nơi liền bảo: Các người đã làm thật đúng ý của ta.
Qua núi Tam Điệp bước vào Thanh Hóa, ta thấy ngay đồng bằng ở đây đã khác châu thổ sông Hồng; núi chen giữa đồng ruộng, gió biển bao giờ cũng thoang thoảng, dòng sông trong xanh chứ không đỏ ngầu. Dọc theo bờ sông kéo dài những bãi phù sa trồng lúa, ngô khoai với những làng mạc trù phú, gần đến biển cửa sông mở rộng dần những đoàn thuyền căng buồm về.
Núi, đồng bằng, biển, càng tiến về phía Nam càng sát với nhau, một chuỗi đồng bằng ven biển do những con sông chảy tuột từ Trường Sơn ra bồi lên, phía tây một rặng núi dài luôn luôn bịt chân trời như một cái màn, nên thường gọi là núi Giăng Màn, núi có những nơi đâm ra tận biển, thành những dãy "hoành sơn" buộc con người phải trèo qua, đó là miền trung của đất nước, kéo dài từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Một chuỗi đồng bằng nhưng cộng lại cũng chỉ bằng diện tích châu thổ sông Hồng, làm ra hạt gạo củ khoai (khoai thường nhiều hơn gạo) không phải dễ.
Đi mười, mười lăm ki lô mét lại gặp một con sông, vào mùa khô lòng sông trơ ra những bãi cát trắng, nhưng lúc mưa bão thường xảy ra từ tháng tám, chín đến tận tháng mười hai, thì nước từ Trường Sơn tuôn về đột ngột, tràn ngập khắp nơi, bão lụt ở đây còn nguy hại hơn và đê điều không được dày đặc vững chãi như ở ngoài Bắc. Đi vào mùa mưa bão, người ta phải sẵn sàng chờ đợi những trận lũ lụt đột xuất đứt đường ô tô, xe hỏa có khi cả tuần vẫn mắc kẹt.
Châu thổ của hai sông Mã và Chu ở Thanh Hóa, của sông Cả (hay sông Lam) ở Nghệ An còn khá rộng, với cư dân đông đúc. Đây là hai châu Hoan Ái thời xưa, nơi mà vua nhà Trần xem như là căn cứ để rút lui sau này phản công, khi quân giặc tràn chiếm Bắc Bộ (Hoan Ái do tồn thập vạn quân). Cũng nơi đây, Hồ Quý Ly xây dựng Tây Đô, nay còn thành đá để lại, mong tránh sức ép của địch. Lê Lợi từ Lam Sơn dần dần tiến ra đồng bằng Thanh - Nghệ, xây dựng bàn đạp vững chắc, sau đó chiếm lại toàn bộ đất nước.
Đất Thanh - Nghệ cũng là đất của văn thân, mấy chục năm nổi lên đánh giặc Pháp, đất của Tống Duy Tân, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Lê Trực, của những con người biết đánh là thua, nhưng vẫn đánh vì anh hùng thành bại mạc luận, kẻ sĩ lấy cái chết để bảo vệ phẩm giá riêng của mình và bảo vệ dân tộc. Những con người vào lúc đen tối nhất vẫn ngâm vịnh:
Còn đất còn trời, còn non còn nước
Còn anh hùng còn hào kiệt
Còn nhiều vận hội với non sông
Đến Thanh Hóa có thể ghé thăm căn cứ Ba Đình, về Hà Tĩnh thăm căn cứ Hương Khê, xưa hơn là đền Bà Triệu (Thanh Hóa), đền thờ vua An Dương Vương (Diễn Châu, Nghệ An), đền thờ Mai Hắc Đế (Nam Đàn, Nghệ An). Không lạ gì qua thế kỷ XX, Nghệ Tĩnh không thiếu những con người hào kiệt của thời đại mới, Phan Bội Châu, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Lý Tự Trọng. Và về xứ Nghệ nhất thiết phái về làng Sen viếng ngôi nhà đơn sơ thanh nhã của gia đình Bác Hồ, để tự hỏi vì sao non nước nơi đây đã hun đúc nên một con người như vậy?
Qua Thanh - Nghệ chúng ta cũng không thể quên được những năm chống Pháp, khu bốn là hậu cứ, là thành trì của cuộc kháng chiến chín năm, và những năm đánh Mỹ, Thanh - Nghệ là nơi chuẩn bị cho công cuộc tiếp sức to lớn của miền Bắc với tiền tuyến miền Nam. Qua cầu Hàm Rồng, bạn nên dừng lại ngắm cảnh con sông Mã len vào giữa hai hòn núi, buộc máy bay Mỹ sà xuống làm mồi cho cao xạ pháo và súng trường của quân dân ta. Một trăm chiếc máy bay để hạ một chiếc cầu quả là sự lạ trong lịch sử chiến tranh. Về thành phố Vinh, bạn đừng mong tìm ra một dấu vết gì của ngày trước, bom Mỹ đã phá toàn bộ thành phố này.
Rời Vinh, qua cầu Bến Thủy, là thấy bát ngát sông Lam và nhớ câu hò:
Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục
Thì biết cuộc đời răng là nhục là vinh
Thuyền em lên thác xuống ghềnh
Nước non là nghĩa là tình ai ơi...
Phía Nam bờ sông Lam, xuôi đòng sông về cửa Hội là đến làng Tiên Điền, nơi có nhà thờ và mộ của Nguyễn Du, nhìn về phía tây nam là núi Hồng Lĩnh, huyện Nghi Xuân quê hương của Nguyễn Du cũng sinh ra nhà thơ Nguyễn Công Trứ tài ba ngang tàng.
Từ đây con dường quốc lộ chạy qua những cánh đồng càng đi càng thu hẹp dần, chúng ta bước vào đất Hà Tĩnh, và đến Kỳ Anh một dãy núi đâm ngang chặng đường - dãy Hoành Sơn, ranh giới phía Nam của Giao Chỉ, của Đại Việt cho đến thế kỷ X. Đèo không cao lắm, và còn có những đồn ải, những bậc thang của con đường xưa, lên đỉnh đèo ta dừng lại nhìn ra biển Đông, ngắm sóng bạc đầu vỗ quanh những hòn đảo lô nhô, rừng xưa đã tàn lụi, không thấy bóng những chú tiều lom khom dưới núi nữa, nhưng vắng bên tai vẫn nghe những câu thơ bất hủ:
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan)
BÌNH TRỊ THIÊN
Qua đèo Ngang, cho đến đèo Hải Vân. trên ba trăm ki-lô-mét là eo lưng của đất nước, con đường quốc lộ chạy qua một hành lang chật hẹp, kẹp giữa biển và núi, qua những con sông nước trong vắt, sông Ròn, sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Thạch Hãn, sông Hương, những con sông bình thường thì thơ mộng nhưng lúc bão lụt là những thần nước quái ác.
Vào đất Bình Trị Thiên này con người gặp lại những kẻ địch mới. Đường chạy dọc nhưng bãi cát trắng xóa phơi mình dưới ánh nắng chang chang; từ những đồi cát, gió biển ngày ngày đẩy vào phía trong những luồng cát vô tận, vùi lấp đồng ruộng thôn xóm. Chống nạn cát lấp, suốt mấy trăm cây số bờ biển, con người dày công trồng những rừng phi lao, trồng từng cây một, lúc cây còn non, mang nước ra bãi cát nắng cháy tưới từng cây một, chăm nom cho đến lúc phi lao mọc thành những đám rừng vui reo theo gió, trở nên những bức lũy chống cát. Không gì đau xót bằng khi thấy những rừng phi lao (cũng gọi là rừng dương) bị bom đạn và na-pan của Mỹ đốt cháy đen trụi.
Bão lụt, cát lấp, chưa hết, đây còn là đất của gió tây hay gọi là "gió Lào"; gió từ Ấn Độ Dương về, qua Lào và sườn tây của Trường Sơn đã hết hơi ẩm thành mưa, xuyên qua dãy núi đá nắng hè hun nóng lúc đến miền Trung nóng như rang. Gió về, cây cỏ khô héo, người vật ngột ngạt, cuộc sống hầu như dừng lại, cả một vùng như một lò than.
Thiên nhiên ác nghiệt, nhưng thiên nhiên ở đây cũng dành cho con người những màu sắc, hình thái đẹp nhất, sông xanh, biển biếc, rừng núi đủ màu.
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Có đâu hang động với con sông luồn qua hàng chục cây số, với những thạch nhũ thiên hình vạn trạng lộng lẫy đa dạng như ở Phong Nha, phía tây Quảng Bình, có đâu bãi cát rừng dương kéo dài như ở Bình Trị Thiên, với những bàu, những phá xanh biếc? Ta theo đường ô tô hay xe hoả từ Huế vào Đà Nẵng, quanh theo sườn núi, nhìn ra biển Đông, ta trèo lên núi Bạch Mã (gần 1500m) để thấy hàng nghìn chiếc thuyền lấp lánh ánh đèn đánh cá trên đầm Cầu Hai, Lăng Cô, như những vì sao, rồi đến dãy hoành sơn thứ hai, trèo đèo Hải Vân (500m), núi thì cao trên 1000m.
Nhưng trước lúc đến Quảng Trị, đến Huế, ta không thể không dừng lại bên sông Bến Hải, trên cầu Hiền Lương. Một con sông trong vắt như bao nhiêu con sông ta đã đi qua, từ Trường Sơn tuôn ra biển. Dừng bờ bắc ới gọi, là nhắn được bà con họ hàng ở bờ nam, trẻ em bơi qua bơi lại. Thế mà:
Cách nhau chỉ một mái chèo
Mà đi trăm núi vạn đèo đến đây
(Thanh Hải)
Hơn hai mươi năm trời con chim ngày ngày bay qua bay lại hai bờ,đám mây theo gió trôi qua trôi lại, nhưng con người thì phải đứng lại, cha mẹ vợ chồng con cái bè bạn phải xa cách, một bức thư cũng không được phép gửi cho nhau hai mươi mốt năm trời, huyết mạch của cả một dân tộc bị tắc nghẽn nơi đây, hai mươi mốt năm trời phải đổ bao xương máu mới nối lại được nhịp cầu Hiền Lương, bước qua sông Bến Hải.
Tôi còn nhớ năm 1975, qua đây cùng một số anh chị em miền Nam tập kết ra Bắc, sau hai mươi mốt năm bước qua vĩ tuyến oan nghiệt này đã oà khóc nức nở. Tôi sửng sốt nhìn, bên bờ bắc bờ nam sông Bến Hải không còn một ngôi nhà nào, đâu đâu cũng hố bom nham nhở, mà cũng không còn một thân cây nào cao đến đầu người.
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
(Nguyễn Gia Thiều)
Qua bờ nam, xác xe tăng, pháo nhan nhản, đồn lũy chi chít dây thép gai, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Ái Tử, bước chân tới đâu là anh em bộ đội chặn lại, vì hàng triệu quả bom, đạn mìn còn chưa nổ nằm dưới đất. Hàng rào Mac Namara đấy, hàng rào điện tử, trong mưu đồ của các nhà chiến lược Washington thì một con kiến chui qua cũng không lọt. Hàng rào hoá học nữa, về phía tây có bao nhiêu rừng, rừng giữ lũ, rừng ngăn gió Lào bị phá trụi, có năm về nông trường Tân Lâm, bên đường số 9, đúng ngày gió Lào, tôi được thấy nhiệt kế giữa nắng, trên mặt đá ghi 72 độ (trong nhà trên 40 độ). Không thể về Việt Nam mà không một lần ghé sông Bến Hải, một lần đi từ cửa Tùng, cửa Việt qua Quảng Trị, Đông Hà, rồi theo đường 9 lên biên giới Lào; mỗi bước đàng ở đây không phải để học một sàng khôn, mà để không bao giờ quên, nhớ lại tất cả những đau thương hôm qua để đầy đủ can đảm và lạc quan nhìn về ngày mai.
Ngày nay, cây cỏ đã phủ xanh những hố bom, bộ đội và bà con đã gỡ gần hết bom mìn (mấy nghìn người đã chết và bị thương) rừng đã bắt đầu được trồng lại, cuộc sống đã trở lại bình thường. Cuộc sống trên một mảnh đất eo hẹp không tạo ra được nhiều của cải như ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng trên đất Bình Trị Thiên này, đẹp nước đẹp non, con người cũng không bao giờ quên cái đẹp.
Trên đồng ruộng, xuôi những dòng sông, đâu đâu cũng nghe vọng lên những câu hò, lúc khoan, lúc nhặt, khi phóng khoáng khi da diết hòa theo cơn gió rì rào hay tiếng róc rách nước chảy. Sau mùa gặt hái, đêm đêm ở các thôn xóm thơm mùi lúa mới, tiếng chày giã gạo quyện với tiếng hò đối đáp, thi tài giữa nhưng xóm đông, có hò chào, hò vào cuộc, hò xa cách... Về Lệ Thủy ta nghe hò khoan thuyền ra khơi. Con người ở đây sinh ra nghe tiếng mẹ hò ru, lớn lên làm ăn vui chơi theo giọng hò, lúc vĩnh biệt cuộc đời cũng có hò đưa tiễn ra đi.
Lịch sử làm cho miếng đất eo hẹp đọc hai bờ sông Hương, nằm giữa Trường Sơn và cửa Thuận An trở thành thủ phủ của đàng Trong từ năm 1636, cuối thế kỷ XVIII Nguyễn Huệ tổ chức lên ngôi lấy hiệu là Quang Trung, rồi thống lĩnh đại quân tiến ra Bắc đánh đuổi quân Thanh. Từ năm 1802, nhà Nguyễn dời đô về đây. Như vậy trong mấy thế kỷ Phú Xuân - Huế là đất kinh kỳ, trở thành một trung tâm chính trị văn hóa với những sắc thái độc đáo.
Thích Đại Sán, một nhà sư Trung Quốc sang thăm vào thế kỷ XVII ca ngợi phủ Kim Long "đường các dinh thự lần lượt được xây cất, lầu son gác tía đua nhau mọc lên". Nhà bác học Lê Quý Đôn vào thế kỷ XVIII tả "Mái lớn nguy nga, đài cao rực rỡ, chạm khắc vẽ vời khéo đẹp cùng cực... phố chợ liền nhau, thuyền buôn bán, đò dọc đò ngang đi lại như mắc cửi".
Phú Xuân thời ấy đã trở thành một trung tâm văn học và Lê Quý Đôn cũng tấm tắc "mạch văn chương một phen dằng dặc, thật đáng khen". Đến thế kỷ XX, Tổng Giám Đốc UNESCO M bow thăm Huế đã thốt lên, đây là một "áng thơ đô thị tuyệt vời,, (un chef d oeuvre de poésie urbaine).
Ngược dòng sông Hương (tốt nhất là đi thuyền chèo hơn ca nô máy), một con sông với dòng nước phẳng lặng, trải như một tấm lụa giữa một cảnh đồi núi xanh tươi, đi từ Cồn Hến lên điện Hòn Chén tới các lăng Minh Mạng, Gia Long, ta không lạ gì người xưa đã chọn mảnh đất núi Ngự sông Hương này làm thủ đô.
Con người đã tô điểm thêm sắc đẹp cho thiên nhiên, chùa chiền, cung điện, lăng tẩm chen mình hài hòa với cỏ cây sông núi trong một vùng rộng lớn, cảnh vật với hàng trăm công trình kiến trúc hồng tía đua tươi, độc nhất ở nước ta, mà cũng được xếp vào những kỳ quan của thế giới. Du khách bị quyến rũ vì cảnh "bốn bề núi phủ mây phong, mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên", và được thưởng ngoạn "còn đây tượng đá, hoàng cung, đỉnh vạc trăm năm đứng cùng tuế nguyệt, ngàn thông réo rắt trên đồi".
Ngày nay chúng ta ngắm cảnh cung điện lăng tẩm, tưởng nhớ một thời vua quan, áo gấm hài nhung, nhớ lại những nghi thức trọng thể của các triều xưa, nhưng cũng không quên cung điện lăng tấm đã chôn vùi bao nhiêu người lao động. Ta về đây, vui sướng nhất là để nhận thấy óc sáng tạo, tài nghệ của những kiến trúc sư, những công nhân thời trước đã dựng nên một nền nghệ thuật phong phú, giao lại cho chúng ta một vốn liếng vô cùng quý báu. Ta về đây cũng xót xa thấy bao nhiêu năm chiến tranh để lại những vết thương không biết rồi có hàn gắn được không? Sau giải phóng, tôi có dịp trở lại thăm thành nội, tôi nói trở lại, vì thời bé, đi theo ông cụ nhà tôi làm quan ở Huế, tôi đã được vào thăm những cung điện sơn son thếp vàng trong những buổi yến tiệc nhà vua chiêu đãi quan khách. Tôi phải dụi mắt mấy lần, để nhận rõ quang cảnh; trên nền nhà của nhiều cung điện nay là những luống khoai lang xanh rờn! Một triều đại đã qua, công tội thế nào, các sử gia đang nghiên cứu thảo luận, nhưng làm sao để khôi phục "áng thơ đô thị tuyệt vời" này? Liệu rồi UNESCO có khuấy lên được một phong trào quốc tế giúp cho Huế sống lại, liệu rồi nhân dân ta còn trăm công nghìn việc cấp bách có giành được công của để khôi phục Phú Xuân - Huế nguyên vẹn, cho mọi người trong nước, ngoài nước đến thưởng thức ngắm nhìn kiến trúc cân đối của Ngọ Môn, cảnh oai nghiêm đường bệ của lăng Minh Mạng, nên thơ của lăng Tự Đức, hùng tráng của lăng Gia Long, thưởng thức ngắm nhìn màu sắc hình thái tế nhị của sành sứ chạm trổ, khảm xà cừ không những trong các cung diện, mà ngay trong nhiều ngôi nhà bình thường?
Huế - Phú Xuân có một phong cách riêng, một lối sống thanh nhã thể hiện trong chiếc nón bài thơ, tà áo tím, làm cho các thầy đồ xứ Nghệ, đồ Quảng, khăn gói đến đây thi cử xong, chân đi chẳng rời, trong mảnh vườn trồng đủ các loại cây trong Nam ngoài Bắc, với những khối non bộ nên thơ. Bữa ăn ở đây thịt cá không nhiều, dầu mỡ ít, nhưng kho xào đậm đà, và trên chiếc mâm làm bằng gỗ quí, trong những đĩa bát nhỏ nhẹ, chủ nhà ý tứ xếp cạnh những miếng khế hình sao, một miếng vả bán nguyệt, vài miếng chuối xanh hình tròn, màu vàng của khế, đỏ của lá ớt, xanh của rau quế hài hòa hợp thành một bức tranh nhỏ. Bữa ăn ngon miệng, thơm tho đẹp mắt.
Đến Huế cũng không thể nào quên những lúc mặt trời sắp lặn sau rặng núi phía tây rọi lên dòng sông ánh chiều tà đỏ ối, từ những chiếc thuyền xuôi ngược vọng lên những câu hò:
Thuyền từ Đông Ba
Thuyền qua Đập Đá
Thuyền tử Vĩ Dạ
Thẳng ngã Ba Sình
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh
Tiếng hò xa vọng nhắn tình nước non.
Chỉ nghe một lần là nhớ mãi:
Chiều chiều ngồi bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
Huế đâu chỉ biết ca hò hay nấu ăn ngon lành; Huế đã từng chứng kiến nghĩa quân của Đoàn Trưng năm 1866 đánh tận vào hoàng cung, ở đây Tôn Thất Thuyết, Trần Cao Vân, Trần Xuân Soạn đã mưu đồ đánh Pháp, đưa vua Hàm Nghi ra Sơn Phòng, dấy phong trào Cần Vương. Trường Quốc Học nay gần trăm tuổi đã đào tạo nhiều lớp người có tên tuổi - Nguyễn Sinh Cung sau này lấy tên Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp, Tạ Quang Bửu. Huế không chỉ có những con đò mộng lả lướt đi về, Huế ngày 23 tháng 8 /1945 đã vùng lên, và ngày 30 tháng 8 buộc vua Bảo Đại trao lại ấn kiếm cho cách mạng, chấm dứt vĩnh viễn chế độ quân chủ. Huế của những cô gái nghiêng nghiêng vành nón bài thơ cũng có cả những cô tự vệ đánh lùi cả một tiểu đoàn lính Mỹ.
Huế không còn là đế đô nữa, đất Bình Trị Thiên không phì nhiêu, mưa bão dồn dập, vết thương chiến tranh chưa thật lành lại, nhưng núi Ngự sông Hương còn đó con người Phú Xuân, con người Bình Trị Thiên.
Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu năng đục mưa trong
Xứ Huế mình một dạ thủy chung
Dẫu méo tròn trong đục vẫn tươi son màu cờ.
TỪ ĐÀ NẴNG ĐẾN PHAN THIẾT
Phía Nam Huế.
Đèo Hải Vân xuyên qua dãy núi chắn ngang giữa hai tỉnh Thừa Thiên - Huế và Quảng Nam - Đà Nẵng. Dãy núi ấy không chỉ là một ranh giới phân chia hành chính, nó còn là ranh giới phân chia hai vùng khí hậu khác hẳn ở Việt Nam. Tản Đà viết:
Hải Vân đèo lớn vừa qua
Mưa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè
Cảm giác đổi vùng khí hậu đến với mỗi người đi qua đây thật rõ, nhất là về mùa đông. Hải Vân giống như một trường thành chắn lại những luồng gió đông bắc lạnh giá, giữ ấm cho cả một dải đất miền Nam suốt cả mùa đông. Từ đây trở vào là không còn mùa đông nữa, chỉ hai mùa, mùa khô và mùa mưa. Dãy núi này chạy từ biên giới Việt - Lào đến tận sát biển Đông: những đỉnh cao thường bị phủ mây mù quanh năm (Hải Vân là biển mây).
Đường đèo chạy ngoằn ngoèo lưng núi dài 20 km. Người xưa từng gọi đây là "thiên hạ đệ nhất hùng quan" (cảnh hùng vĩ nhất dưới gầm trời), hẳn không phải là quá đáng, khi trước mắt ta là một đoạn đường núi "đầu lẫn trong mây và chân dìm dưới biển".
Đây là xứ sở của đá hoa cương: những cảnh tuyệt vời ở đây phần lớn do nhưng núi đá quí ấy tạo thành.
Từ đèo Hải Vân trở vào đến đèo Cù Mông là địa hạt của Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, mỗi tỉnh có một nét riêng biệt, ba tỉnh khác nhau về mặt này mặt khác, những lại hợp thành một thể thống nhất, tức khu V của thời kháng chiến. Phía đông là biển; những con sông Thu Bồn, Trà Khúc, sông Vệ, sông Cồn bồi lên những đồng bằng lớn nhỏ, với nhiều xóm làng trù phú. Phía tây là những đồi núi trồng nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp và các thung lung trồng lúa; xa hơn là rừng núi Tây Nguyên. Biển với những cảng thuận lợi, những hòn đảo ngoài khơi, đồng bằng được khai thác lâu đời, rừng núi rộng lớn của Tây Nguyên, với một cấu tạo như vậy không lạ gì ba tỉnh khu V là những trung tâm kinh tế văn hóa quan trọng ngày trước của nước Chămpa, sau này của Việt Nam.
Hết đèo Hải Vân ta bước vào đất Quảng Nam. Người Quảng Nam thường nói đất quê mình "giàu linh khí". Rõ ràng ở đây thiên nhiên đã tạo nên những cảnh quan rất đẹp.
Quê em có dải sông Hàn
Có hòn Non Nước, có hang Sơn Trà.
Từ trên đèo Hải Vân nhìn thấy bán đảo Sơn Trà hiện lên ở phía nam bên kia vịnh Đà Nẵng (còn gọi là Vũng Hàn, vì đây là nơi sông Hàn đổ ra biển). Sơn Trà như mọc từ biển lên, cao 693m, sớm chiều mây phủ, cũng gọi là núi Tiên Sa, xem như có những nàng tiên từ trên trời sa xuống. Từ Đà Nẵng có đường ra bán đảo Sơn Trà, qua sông Hàn, dòng sông thường thả những bụi nước mát dịu vào đường bờ sông của thành phố vào mùa hè oi bức, con đường này là nơi hóng mát của dân thành phố. Từ Đà Nẵng đi về phía Nam khoảng 8km, đến Ngũ Hành Sơn, theo cách gọi của dân gian là núi Non Nước, một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất. Ngũ Hành Sơn là một nhóm núi năm hòn: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Thủy Sơn là núi lớn nhất và cũng đẹp nhất. Trong núi này có hang Vân Nguyệt, hang Thiên Long, động Linh Nham, động Tàng Chơn. Những hang động đầy hấp dẫn với thạch nhũ kỳ thú và những lối đi thật bất ngờ. Động Vân Thông (còn gọi là hang Trời) là động lộ thiên, đứng trong động ngước nhìn lên có thể thấy những đám mây bay lơ lửng. Rồi động Thiên Long (còn gọi là hang Gió), vì bao giờ cũng có những luồng gió mát lồng lộng ngay trong động sâu. Động Huyền Không có vòm cao, trên đỉnh trổ năm lỗ trống gọi là cửa Trời, vách đá có những khối hình, người ta gọi là "vú đá nàng tiên" có nước nhỏ ra như những giọt sữa. Trong những hang động ấy, người xưa (Chăm và Việt) đặt những nơi thờ cúng; trên núi có những ngôi chùa khá lớn, vì bị phá trong chiến tranh nên sau những lần trùng tu mới đây, những ngôi chùa này mất vẻ cổ kính tuy vẫn giữ lại được phong cách cũ. Chùa Tam Thai đặt trên một đám đất bằng ở ngay đầu núi, từ đó đi một quãng ngắn ra một mỏm núi nhỏ gọi là đài Vọng Giang, nơi tầm nhìn bao quát toàn cảnh một vùng rộng lớn với núi rừng, đồng ruộng, dòng sông. Và đi tới gần cuối về phía đông, từ trên cao bước xuống theo những bậc đá lớn, bạn đặt chân lên một mỏm núi nhỏ khác: đài Vọng Hải, nơi có thể nhìn ngắm cả một vùng biển mênh mông.
Những hòn núi khác cũng chứa trong mình nhiều cảnh lý thú. ở Kim Sơn chẳng hạn, luồn mình vào một hang sâu, tối om, sẽ đến tận nơi có vũng nước trong, cạnh đó là những nhũ đá tạo thành những hình thù kỳ ảo. Ngũ Hành Sơn có những loại đá quí đủ màu sắc, người ta dùng làm những đồ chạm khắc tinh tế: tượng Phật, sư tử, voi và cả những con cá vàng quẫy đuôi sống động. Nghề làm đồ mỹ nghệ bằng cầm thạch có từ lâu, sản phẩm được trong và ngoài nước rất thích. Nhưng cũng đã đến lúc cần nâng cao hơn nữa kỹ thuật cũng như nghệ thuật của nghề làm đồ mỹ nghệ bằng đá này.
HỘI AN
Vào thế kỷ XVI Nguyễn Hoàng thấy đây là nơi giàu có (vàng, yến sào, quế, đường, mật ong, ruộng muối, cẩm thạch... ) nên mới lập thành trấn và cử con trai là Nguyễn Phước Nguyên trấn giữ, mở cửa Hội An buôn bán với bên ngoài. Người Trung Quốc và người Nhật đến buôn bán và thường trú ở những phố riêng. Sau đó còn có người Hà Lan và những người phương Tây khác.
Quảng Nam là một trong những nơi đầu tiên đón nhận luồng văn minh phương Tây trên đất nước ta.
Hội An có nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử: Hội Phố, Hoài Phố, Hải Phố, Hoa Phố... mang tên gì, nó cũng là một đô thị gồm có cảng, có chợ, có phố. Hiện nay, cảng không còn nữa (nhường cho cảng Đà Năng), chỉ còn chợ và phố.
Lịch sử Hội An bắt nguồn từ thời xa xưa, người Chiêm Thành cũng đã từng dùng đây làm cửa ngõ thông thương với ngoài. Với chúa Nguyễn, Hội An được mở rộng thành nơi trung tâm của Quảng Nam từ cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII.
Hội An nằm bên cửa Đại, nơi sông Thu Bồn đổ ra biển, rất thuận tiện cho tàu buôn ra vào. Người nước ngoài còn cư trú ở đây xây thành những khu phố riêng của họ: Phố Nhật, phố Tàu và một số thương điếm của người Hà Lan. Một bài ký sự của một nhà sư Trung Quốc đến đây hồi đầu thế kỷ XVII có ghi lại đại thể: Người Trung Quốc lập tiệm buôn đọc theo bờ sông, gọi là Đại Đường Nhai, hai bên hàng quán liên tiếp nối nhau, phố Nhật nằm ở phía đông phố khách. Người Nhật và người Trung Quốc là thương khách chính trong các phiên chợ lớn hàng năm kéo dài tới bốn tháng liền. Hàng năm người Nhật mang đến 4 - 5 vạn nén bạc để cất hàng, còn người Trung Quốc thì mang tơ lụa và đặc sản đến đổi hàng. Gần đây, các cuộc điều tra và khảo sát các khu phố cũ đã được tiến hành, kết quả cho thấy còn nhiều di tích được giữ gần như nguyên vẹn sau những lần trùng tu mới nhất. Đặc biệt đáng chú ý mấy phố cổ của người Trung Quốc, cầu Lai Viễn và một số đền chùa cũ.
Phố Trung Quốc cũ chạy đọc theo bờ sông, gồm những ngôi nhà hình ống. Phía trước nhà là cửa hiệu, đoạn giữa là nhà ở, và phía sau là kho chứa hàng (cất từ thuyền dưới sông lên). Thông thường mỗi ngôi nhà như thế có ba mái chính, giữa các mái ấy là mái vỏ cua. Đi từ trước ra sau nhà, thấy như một ngôi nhà thống nhất. Những ngôi nhà này được dựng theo một mô-típ giống nhau, giống nhau cả cách trang trí.
Lai Viễn Kiều theo truyền lại do người Nhật dựng, vì thế gọi là cầu Nhật. Đó là những cầu nhỏ có mái che, đường to ở giữa, hai bên có lối đi riêng. Nền cầu hơi vồng lên ở giữa, trông như một vòng cung. Cầu ghép với một chùa ở bên. Xưa kia, cầu lát ván thưa, đứng bên trên có thể nhìn thấy cá bơi dưới lạch.
Chùa Bà Mụ xưa kia là của người Minh Hương. Chùa thờ Thiên mẫu thánh hậu và mười hai bà mụ, cầu cho thiên hạ thái bình. Chùa có tam quan rất đẹp, bóng tỏa xuống mặt nước bao la, trông thật thơ mộng. Nhưng tượng thờ, đồ thờ trong chùa có trình độ điêu khắc khá tinh xảo. Chùa của người Trung Quốc nhưng chủ yếu do những người thợ địa phương làm. Hội An tuy trải qua nhiều cuộc chiến tranh nhưng chưa bị tàn phá mấy. Nhìn chung đó vẫn là nơi độc nhất ở nước ta còn giữ được "phong độ" của một đô thị xưa. Một dự án du lịch lớn đang được thực hiện để biến Hội An thành một điểm du lịch quan trọng không chỉ ở Quảng Nam - Đà Nẵng mà của cả nước.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vùng đất này sản sinh ra những sĩ phu yêu nước và có óc canh tân nổi tiếng. Hoàng Diệu, người giữ thành Hà Nội và chết với thành này lúc Pháp đánh đến là người quê ở Gò Nổi - Quảng Nam, Phan Chu Trinh là người đứng đầu cuộc vận động Duy Tân những năm đầu thế kỷ.
Với địa thế xung yếu của mình, Quảng Nam - Đà Nẵng thường xuyên là nơi đứng đầu sóng ngọn gió trước các cuộc xâm lược của các nước phương Tây. Không phải ngẫu nhiên mà tiếng súng xâm lược của Pháp nổ đầu tiên vào Đà Nẵng năm 1858, và Đà Nẵng là nơi đạo quân đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đồ bộ lên năm 1965. Quên sao được cuộc chiến đấu gan góc kiên cường của đồng bào Đà Nẵng, Duy Xuyên, Hòa Vang, Điện Bàn... thời chống Mỹ.
Ngày nay Quảng Nam trở thành một tỉnh quan trọng về mọi mặt.
Quảng Nam có quế Trà My, thuốc lá Cẩm Lệ, lụa Gò Nổi, có quả bòn bon ngọt lành, có nước mắm Nam Ô. Đây là tỉnh lớn nhất, đông dân nhất của miền Trung Trung bộ. Quảng Nam còn có mỏ than với khu công nghiệp Nông Sơn - An Hòa. Và Quảng Nam có thành phố và cảng Đà Nẵng rất sâu và kín gió, tàu lớn ra vào dễ dàng, một sân bay cỡ quốc tế, đường sắt đường bộ đều thuận tiện. Không lạ gì ở Đà Nẵng xuất hiện và đang phát triển một loại ngành công nghiệp: dệt, cơ khí, hóa chất, chế biến thực phẩm. Và nếu trước kia về văn hóa, Quảng Nam - Đà Nẵng còn phụ thuộc vào Huế, Quy Nhơn, ngày nay Đà Nẵng đang dần dần trở thành một trung tâm văn hóa quan trọng.
Từ Quảng Nam vào đến Quảng Ngãi, khách qua đường chú ý ngay đến những guồng nước cao lớn, có cái lên đến 12m, làm bằng tre, ngày đêm đưa nước các sông Trà Khúc, sông Vệ lên ho đồng ruộng. Và lúa ở đây nhường chỗ cho những ruộng mía kéo dài cả tỉnh; khắp các chợ khách có thể nếm và mua kỷ niệm những khối "đường phổi" ngọt ngào.
Ở đây cũng khó mà nhắc hết tất cả những nơi đã nổi lên đánh Pháp đánh Mỹ, chỉ cần nói Quảng Ngãi có Ba Tơ (khởi nghĩa tháng 3/1945), có Trà Bồng (khởi nghĩa 8/1959), có Sơn Mỹ (tức Mỹ Lai), ai muốn hiểu nhiều về lịch sử hiện đại có thể về đây tìm hiểu trên thực địa nhiều biến cố quan trọng.
Không xa Sơn Mỹ là Sa Huỳnh, không chỉ là một bãi tắm đẹp mà còn là nơi có di chỉ của một nền văn hóa khảo cổ đặc trưng của một vùng ven biển. Người ta đã thấy ở đây những rìu đá có vai, một ít vật bằng đồng (lưỡi giáo, chuông nhỏ, đồ trang sức), nhưng nhiều nhất là đồ sắt (công cụ và vũ khí). Đặc biệt còn tìm thấy những mộ vò (theo tục lệ chôn cất người chết trong những vò cao 60cm, trong đó còn chứa những đồ trang sức bằng đồng và đá quí…. Văn hóa Sa Huỳnh thuộc giai đoạn sơ kỳ đồ sắt của cư dân nông nghiệp ven biển từ thiên niên kỷ I trước công nguyên. Có thể chủ nhân của nền văn hóa này là tổ tiên xa xưa của người Chàm.
***
Vượt qua một đoạn đường sát chân núi, là đi giữa một vùng đồng bằng xanh mát bóng dừa. Rừng dừa Tam Quan, Bồng Sơn chạy dài hàng chục ki-lô-mét, từng bị phá trụi vì bom đạn và chất độc hóa học, nay mới dần dần lấy lại được màu xanh xưa (sau chiến tranh chỉ còn lại không đầy nửa triệu cây dừa trên ba triệu cây trước kia).
Nếu có dịp dừng lại nơi đây, bạn hãy đi dọc theo mấy đoạn bờ biển, nhìn ra khơi xa. Ngoài kia, tùy theo tiết trời những hòn đảo nhỏ hiện lên khi rõ khi mờ. Các cồn cát nối những núi đảo gần bờ lại, che kín các vùng biển thành vùng nước ngọt. Vùng Quy Nhơn được bao bọc ở phía đông bởi bán đảo Phước Mai. Vách núi phía đông bán đảo này dựng đứng bên biển cả như một bức tường khổng lồ đày đặc những tổ chim yến. Quy Nhơn có đầm Thị Nại, nơi đấy đã xảy ra những trận quyết liệt giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh; Quy Nhơn là nơi xuất phát đường 19 lên Tây Nguyên, nên đang trở thành cảng xuất nhập của một vùng rộng lớn. Bình Định, Quy Nhơn là đất của võ thuật:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định múa roi đi quyền
Về Quy Nhơn bạn nên ở lại một vài ngày, xem những nghệ nhân nổi tiếng diễn một hai vở tuồng, nghe nói về thân thế và tác phẩm của Đào Tấn, một nhà soạn kịch, đạo diễn tuồng, một nhà thơ lớn của nước ta, cùng thời với cụ Phan Bội Châu. Ngày nay chúng ta mới phát hiện ra Đào Tấn là một nhà văn cỡ lớn có thể xếp ngang hàng với những văn hào lớn nhất từ xưa đến nay. Tuồng của Đào Tấn mang đầy đủ kịch tính, lời văn hoa lệ lâm ly, diễn xuất ở đây điêu luyện không kém bất kỳ một loại kịch nào khác trên thế giới.
Từ Quy Nhơn, theo đường 19, tiến về đèo An Khê (cao 740m) chúng ta thăm đất Tây Sơn, bên này là đèo Tây Sơn "Hạ Đạo", bên kia là Tây Sơn "Thượng Đạo", vì đây là nơi giao dịch giữa miền núi và miền xuôi, giữa người Kinh và người Ba Na. Từ đây năm 1771 ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Nguyên Lữ đã kéo một đoàn nghĩa binh, Kinh có, Bana có xuống Bình Định giải phóng tỉnh này khỏi ách áp bức của chúa Nguyễn; sau đó tiến đến tận Thăng Long, đánh đổ hai triều chúa Nguyễn - Trịnh thống nhất lại đất nước sau hai trăm năm chia cắt.
Về Tây Sơn nay còn thấy gốc me cổ thụ và cái giếng, nơi nô đùa của anh em Tây Sơn thời còn tấm bé, đến đây đồng bào Kinh và Thượng còn chỉ cho xem nào là núi ông Nhạc, núi ông Bình (tức Nguyễn Huệ), nào là nơi dùng cất kho của nghĩa quân, nào là "cánh đồng cô hầu" nương trại của một cô gái Bana, vợ của Nguyễn Nhạc có công trồng trọt chăn nuôi cung cấp lương thực, voi ngựa cho quân Tây Sơn. ở đây còn có đền thờ Bùi thị Xuân, nữ tướng của Tây Sơn, chỉ huy đàn voi đánh giặc. Về dịp tết, vào ngày mùng năm, nhân dân khắp nơi về đây dự hội Quang Trung, kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, đây là một trong những hội lớn nhất ở nước ta. Từ giã Quy Nhơn, lên đèo Cù Mông, ngoảnh lại nhìn sông núi khu V, với ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, ta nghe vọng câu hò:
Sông cạn, biển cạn, lòng ta không cạn
Núi lở, núi mòn ngãi bạn không quên
Đường còn qua lại xuống lên
Ơn bạn bằng biển, ngãi ta đền bằng non
***
Từ đèo Cù Mông bước vào tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận những khối núi đồ sộ tiến sát ra biển, con đường ô tô chạy ngoằn ngoèo sườn núi, dưới chân núi là biển, đây là đoạn đường ngoạn mục nhất của quốc lộ số 1. Qua sông Đà Rằng (cũng gọi là sông Ba) trên chiếc cầu dài nhất của quốc lộ số 1, vượt qua khỏi Tuy Hòa với đồng bằng giàu nhất của vùng này, là trèo lên đèo Cả qua khối núi Vọng Phu; núi này có đỉnh cao trên 2000m đâm thẳng ra biển, tạo thành những mũi đá đồ sộ, tiếp đó những cao nguyên Lang Biang, Di Linh cũng vươn ra tận biển tạo ra không biết bao nhiêu mũi, vịnh, vũng lạch, đảo, bán đảo, và chen vào giữa là những cánh đồng nhỏ, là nhưng nơi dân cư đông đúc: Sông Cầu, Tuy Hòa, Nha Trang, Ba Ngòi, Phan Rang, Phan Thiết.
Tôi không nói nhiều về thành phố Nha Trang với một bãi biển tuyệt đẹp, một viện Pasteur lâu đời còn giữ lưu niệm của nhà bác học Yersin, một viện Hải Dương học độc nhất ở nước ta và nhiều tiện nghi du lịch, về vịnh Cam Ranh nổi tiếng là một trong những vịnh rộng nhất của thế giới (338km2), với một bán đảo dài 12km có đến ba cảng, có thể tiếp nhận những hạm đội rất lớn. Cát Cam Ranh cũng là cát tinh khiết vào bậc nhất. Thế nào tổ chức du lịch cũng hướng dẫn các bạn một cách chi tiết.
Phía nam Nha Trang, là hai đồng bằng Phan Rang, Phan Rí, có đặc điểm là hai nơi ít mưa nhất trong cả nước, lượng mưa hàng năm khoảng 600mm, một phần ba của lượng mưa trung bình, không lạ gì đây là đất trồng nho và trồng bông. Sau đó Phan Thiết với nước mắm nổi tiếng, hàng năm sản xuất trên 30- 40 triệu lít, những cảng lớn nhỏ của Ninh Thuận, Bình Thuận có thể hàng năm bắt 100.000 tấn cá. Ninh Thuận có đồng Cà Ná, Bình Thuận có suối nước nóng Vĩnh Hảo. Đến Phan Thiết cũng không quên thăm trường Dục Thanh, nơi Nguyễn Tất Thắng (tức Bác Hồ) đến dạy học năm 1911, trước lúc vào Sài Gòn để đi ra nước ngoài. Suốt từ đèo Hải Vân đến mũi Kê Gà, cuối tỉnh Bình Thuận, từ con đường ô tô chạy ven biển, ta có thể nhìn ra cả một chuỗi hòn đảo, mở rộng lãnh thổ nước ta đến tận ngoài khơi. Trước mắt Đà Nẵng là quần đảo Cù Lao Chàm, và cách xa khoảng 350km là quần đảo Hoàng Sa, rồi ngoài khơi Quảng Ngãi là Cù Lao Ré. rồi những hòn Ông Cơ, hòn Ông Cán, hòn Hèo, hòn Lợn, hòn Bịp, hòn Thạo, hòn Chà Là, hòn Rêu, hòn Nứa, hòn Ngoại... và xa tít ngoài xa phía đông nam là quần đảo Trường Sa, tỉnh nào cũng có đảo. Các đảo này là nơi chim yến về làm tổ, và yến sào là đặc sản của các tỉnh ven biển miền Trung, nếu không được trực tiếp xem cảnh người đi tìm tổ yến, thì cũng nên xem cuốn phim về nghề này.
(Các di tích Chính ở miền Trung xem phần sau).