29/01/2018, 21:17

Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Văn mẫu lớp 10

Nội dung bài viết1 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 1 2 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 2 3 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 3 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 1 Trần Quốc Tuấn ...

Nội dung bài viết1 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 1 2 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 2 3 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 3 Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 1 Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng của Đại Việt thuở "Bình Nguyên", văn võ toàn tài, tên tuổi gắn liền với chiến công Bạch Đằng giang bất tử. Trong “Đại Việt sử kí toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã dành những lời đẹp nhất ca ngợi đức độ, tài năng của Hưng Đạo Đại Vương. Phần đầu nói về kế sách giữ nước của Trần Quốc Tuấn. Có thể nói đây là những lời vàng ngọc của vị thánh nhân Đại Việt khi vua Trần ngự tới thăm ông và hỏi ông: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào? Đại Vương đã nhắc lại những kinh nghiệm lịch sử, những bài học lịch sử: Triệu Vũ dùng kế "thanh dã” và phục kích mà đánh tan quân nhà Hán; đời nhà Đinh, nhà Lê thì “dùng người tài giỏi”, “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống”. Thời nhà Lí, nhờ "có thế” mà Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm đến trận Mai Lĩnh. Thời nhà Trần, khi Tọa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây”, nhưng “vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”. Giặc dùng trường trận thì ta dùng đoàn binh để chế ngự, để tuỳ thời tạo thế, và phải có một đội quân "một lòng như cha con Thượng sách giữ nước là "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Mưu lược trong dụng binh, xây dựng quân đội (phụ tử chi binh), dùng đoản binh chế trường trận, bồi dưỡng sức dân, thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc – là những bài học sâu sắc để giữ nước và dựng nước mà Trần Quốc Tuấn để lại cho dân tộc ta muôn đời sau. Phần thư hai, Ngô Sĩ Liên nói về tư chất và tính cách của Trần Quốc Tuấn. Ông là con Yên Sinh Vương Trần Liễu. Lúc mới sinh ra, có một ông thầy tướngxem cho và bảo: “người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Lớn lên, TrầnQuốc Tuấn “dungmạo khôi ngô”, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”. Tác giả kể lại mối hiềm khích giữa An Sinh Vương và Trần Thái Tông, lời trăng trối của cha, Trần Quốc Tuấn chí “ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”. Chuyện Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn nói với Dã Tượng, Yết Kiêu, với các con, và thái độ của ông, lúc thì "cảm phục đến khóc, khen ngợi… lúc thì “ngầm cho là phải ”, lúc thì nổi giận quát Quốc Tảng là “tên loạn thần…đứa con bất hiếu ”, rút gươm toan chém – tất cả đều thể hiện tấm lòng trung nghĩa của vị Quốc công, xoá hận thù riêng, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết. Phần thứ ba nói vềđức độ “kính cẩn giữ tiết làm tôi” của Trần Quốc Tuấn. Tuy chức trọng quyền cao, được nhà vua cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, nhưng "Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào”. Vì thế, mùa thu ngày 20 tháng 8 ta (năm 1300), ông mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, nhà vua và triều đình đã tặng ông là "Thái sưThượng phụ Thượngquốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại VươngVua Thánh Tông soạn bài văn bia, ví ông với Thượng phụ ngày xưa. Điều đó cho biết Trần Quốc Tuấn được trọng vọng như thế nào. Qua đoạn trích, ta thấy Ngô Sĩ Liên đã kể lại những mẩu chuyện rất cụ thể và cảm động để làm nổi bật tài năng và đức độ của Trần Quốc Tuấn. Nghệ thuật thuyết minh kết hợp với tự sự để khắc họa chân dung nhân vật lịch sử cho thấy ngòi bút bình sử của Ngô Sĩ Liên thật đặc sắc. Phần cuối nói về sự linh nghiệm, ứng nghiệm, sự hiển linh của Hưng Đạo Vương, đặc biệt là hình ảnh "tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn ” rất giàu ý nghĩa. Điều đó nói lên Trần Quốc Tuấn là hồn thiêng Đại Việt, tình yêu nước thương dân và khí phách anh hùng của ông đã trở thành bất tử trong lòng người; nhân dân tôn kính và ngưỡng mộ ông vô cùng. Các tác phẩm của Trần Quốc Tuấn như “Binh gia diệu lí yếu lược”, “Vạn Kiếp tôngbí truyền thư” là tinh hoa, là tài sản tinh thần vô giá của Đại Việt. Ngô Sĩ Liên đã nhắc lại một số tên tuổi như Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu … là để ca ngợi cái tài “dùng người ” và "khéo tiến cử người tài giỏi ” cho đất nước, khẳng định Đại Vương "có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy”. Câu nói của Trần Quốc Tuấn trả lời Trần Thánh Tông khi thế nước ngàn cân treo sợi tóc: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng ” là tượng trưng cho khí phách Đại Việt, cho "hào khí Đông A ” sáng rực đến nghìn thu. Qua đoạn trích "Đại Việt sử kí toàn thư”, ta cảm thấy Ngô Sĩ Liên đã dựng nên một tượng đài kì vĩ, tráng lệ về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng có công lớn nhất trong ba lần kháng chiến đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Kết hợp thuyết minh với tự sự bằng những mẩu chuyện sống, giọng văn thâm trầm, Ngô Sĩ Liên đã tạo nên một bài bình sử đặc sắc, đem đến nhiều lí thú cho người đọc. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 2 Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên là tập biên niên sử nhưng mang đậm chất văn học (theo tinh thần “vãn sử bất phân” của thời trung đại). Mỗi nhân vật, sự kiện lịch sử được đề cập đến thường kèm theo những câu chuyện sinh động, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Chân dung các nhân vật lịch sử thường được tác giả khắc hoạ khá sắc nét. Đoạn trích Hưng Đạo Dại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cách viết nói trên. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. ông giữ vai trò trụ cột của nhà Trần và là vị tướng có đóng góp to lớn trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Với tẩm vóc lịch sử quan trọng và những phẩm chất tốt đẹp của một vị tướng tài, sau khi mất, ông đã được nhân dân thần thánh hoá và được lập đền thở trên khắp nước Nam. Qua bài viết, tác giả Ngô Sĩ Liên đã xây dựng thành công một hình tượng đẹp đẽ vế người anh hùng văn vỗ song toàn. Những câu chuyện phản ánh cách ứng xử của Trần Hưng Đạo đối với nhà vua, với các tướng lĩnh, với người thân và những mẩu chuyện nhỏ về đời riêng đã thể hiện tính cách và phẩm chất quý báu của ông. Nhân vật Trần Quốc Tuấn được tác giả miêu tả trong nhiều mối quan hệ và trong những tình huống thử thách, qua đó làm nổi bật phẩm chất của ông ở nhiều phương diện. Nhà viết sử đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật lịch sử sống động bằng những chi tiết chọn lọc đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Cách kể chuyện về một nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử kí toàn thư không đơn điệu theo trình tự thời gian. Chúng ta có thể thấy được mạch kể của bài viết như sau: Mở đầu tác giả nêu lên sự kiện khác thường để tạo ra một mốc thời gian đáng chú ý: Tháng 6, ngày 24, sao sa. Với quan niệm “thiên nhân tương dữ" tức là giữa trời và người có quan hệ chặt chẽ với nhau thì sao sa là điểm xấu, dự báo một nhân vật có vai trò trọng yếu đối với quốc gia (vua, tướng quốc, anh hùng có công lớn với dân tộc) sắp qua đời. Điềm báo này ứng vào việc Hưng Dạo Dại Vương ốm. Hưng Dạo Dại Vương ốm, vua ngự tới thăm và ông đả dặn dỏ vua những điều tâm huyết. Vậy, Hưng Dạo Dại vương là ai? Đó là Trần Quốc Tuấn với những nét riêng về hoàn cảnh xuất thản, về tướng mạo và những sự kiện đáng chú ý trong đời. Sau khi Trần Quốc Tuấn mất, ông được vua phong tặng rất trọng hậu vì có-nhiều công lao to lớn đối với đất nước và có phẩm chất, đức độ đáng kính phục. Cách kể chuyện mạch lạc, khúc chiết của tác giả vừa giúp người đọc hình dung được nhân vật là ai, có những đặc điểm gì đáng đưa vào lịch sử, vừa giữ được mạch chuyện với những chi tiết sinh động, hấp dẫn, làm rõ nét chân dung nhân vật. Phẩm chất nổi bật nhất của Trần Quốc Tuấn là lòng trung quân ải quốc. Lỏng trung quân của ông thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm cao đối với sơn hà xã tắc. Khi được nhà vua hỏi về việc chống giặc: Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc sang xâm lược thì kế sách như thố nào ? thì Hưng Đạo Đại Vương đã hiến những kế sách đủng đắn và sáng suốt: Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế " thanh dã ”, đại quân ra Khẳm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Dời Dinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam môi mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lí mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đốn tận Mai Lĩnh là vì có thê. Vừa rổi Toa Đô, ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đổng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Dại khải, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cở vậy, tuỳ thời tạo thố, có được đội quân, một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy. Sau khi đưa ra những bài học trị nước, Trẩn Quốc Tuấn đã khẳng định rằng trị nước là một công việc phức tạp, khó khăn, sự thành bại phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Tuỳ thuộc từng hoàn cảnh cụ thể mà đấng quân vương có kế sách phù hợp. Để chống giặc, có thể dùng kế thanh dã (vườn không nhà trống), biết dùng người tài giỏi và đoàn kết toàn dân, để lòng dân không lìa cũng là bài học quý giá. Kế sách trị nước còn là vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức để đánh đuổi ngoại xâm. Kế sách phù hợp ắt sẽ thành công. Câu trả lời của Hưng Đạo Đại Vương chứa đựng những kế sách trị nước quý giá, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một thiên tài. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng và tư tưởng thân dân. Hạt nhân của kế sách trị nước chính là khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Qua lời lẽ Hưng Đạo Đại Vương trinh bày với vua vế thời thế, về mối tương quan giữa ta và địch, chiến lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là coi trọng đến sức mạnh đoàn kết toàn dân, chúng ta thấy rõ ông là nhà quân sư có tài năng kiệt xuất. Vậy Hưng Đạo Đại Vương là ai? Tác giả lần lượt nêu vài nét chính trong tiểu sử và kể những cảu chuyện nhỏ về cuộc đời ông: Quốc Tuấn – con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời". Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài vàn võ. Lòng trung quân của Trần Quốc Tuấn dược đặt trong hoàn cảnh có nhiều thù thách: Mối hiểm khích giữa thân phụ của ông là An Sinh Vương Trấn Liễu với vua Trần. Thái Tông rất khó hoà giải. Trước khi qua đời, người cha trăng trối rằng: Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mất đưặc. Trần Quốc Tuấn ghi để điểu đó trong lòng, nhưng không cho là phải. Bị đặt vào tinh thê' mâu thuẫn gay gắt giữa hiếu và trung, nhưng Trần Quốc Tuấn đã dặt chữ trung lên trên chữ hiếu, nợ nước lồn trên tinh nhà. Hay nói khác đi, ông đã không thực hiện đạo hiếu một cách cứng nhắc. Trung cũng như hiếu ở Trán Quốc Tuấn đểu được chi phối bởi nghĩa lớn là trách nhiệm đối với đất nước. Vì thiết tha với vận mệnh đất nước nên Hưng Đạo Đại Vương luôn đặt lợi ích của dân tộc lẽn trên quyển lợi của bản thân và gia đình. Lúc đã nắm quyền hành trong tay, Trán Quốc Tuấn đem lời cha dặn ngày nào ra hỏi hai gia nô là Dã Tượng Yết Kiêu thì họ can ông: Làm kế ấy tuy phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thổ xin chốt già làm gia nỗ, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu… Thái độ của Yết Kiêu, Dã Tượng khiến Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Lần khác, Quốc Tuấn vờ hỏi con trai là Hưng Vũ Vương: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?". Hưng Vũ Vương trả lời: “Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ. Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con trai thú là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: “Tống Thải Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vặn nên có được thiên hạ". Quốc Tuấn rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra". Đinh giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin vội chạy tó khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mồi cho Quốc Tảng vào viếng". Sau khi mất, Trần Quốc Tuấn được vua phong tặng rất trọng hậu: Thái su Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo Dại Vương. Nhà viết sử lí giải tại sao mà ông lại được phong tặng rất hậu như vậy. Thông thường, các nhản vật lịch sử sau khi chết mới được khẳng định tài nặng và nhân cách các quý qua hàng loạt chi tiết, sự việc đã được chọn lọc. Cách làm đó là theo tinh thần "cái quan định luận” có nghĩa là đóng nắp quan tài rồi mới có thể khẳng định đúng đắn về giá trị của nhân vật đó. Ở đoạn này, tác giả nhận xét rằng đi đôi với lòng trung nghĩa và tài cầm quản dẹp giặc, Trần Quốc Tuấn còn có đức độ lớn lao. ống khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết của bề tôi dù được vua trọng đãi rất mực, luôn coi là bậc thượng phụ (lả thầy, là cha). Lúc ông còn sống, đích thân vua Thánh Tông đã soạn văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn và cho phép ông được quyền phong tước cho người khác… Nhưng óng chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Ông cẩn thận phòng xa trong việc hậu sự: Khi sắp mất, ông dặn con ràng “ Ta chết thì phải hoả táng, lấy vật tròn đựng xương, bỉ mật chôn trong vườn An Lạc, rói san đất và trồng cây .như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lạ phải làm sao cho mau mục. Ông tận tinh với tướng sĩ dưới quyền nên bỏ công soạn sách để dạy bảo khích lệ họ: Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền dẫn chuyện Kỉ Tín chết thay để cứu thoát Hân Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó. Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp ở Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dù, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi", Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đẩu tôi trước rồi hãy hàng. Vì thế, đời Trùng Hưng lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc. chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cấu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lể ở đền đình, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn. Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, Hưng Đạo Đại vương vẫn thường linh hiển để phò trợ dân chúng chống lại tai nạn, dịch bệnh và giặc ngoại xâm. ông đã thực sự trở thành một vị phúc thần của dân chúng. Có thể nói Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là mẫu mực của một vị tướng: ai đức vẹn toàn, không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quản giặc cũng vô cùng kính phục. Qua đoạn trích, người đọc yêu mến, tự hào về vị anh hùng dân tộc Trẩn Quốc Tuấn và không quên những câu chuyện đầy ấn tượng về ông. Đó là mục đích và cũng là thành công của nhà viết sử Ngô Sĩ Liên. Ngày nay, ông đã được tôn vinh là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của thế giới, là Danh nhân văn hoá thế giới. Dân tộc Việt Nam rất tự hào về vị anh hùng kiệt xuất Trần Quốc Tuấn. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 3 Thời trung đại, văn – sử – triết bất phân là hiện tượng thường thấy trong một văn bản ngôn từ. Đó cũng chính là lí do khiến nhiều câu chuyện lịch sử lại có giá trị văn học lớn lao. Từ những trích đoạn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc một trong những nội dung quan trọng của văn học Việt Nam thời trung đại: tinh thần yêu nước. Cùng với lòng nhân đạo, yêu nước là một trong các phẩm chất tuyệt đẹp của con người Việt Nam mọi thời đại. Một trong những biểu hiện của yêu nước là lòng tự hào dân tộc. Các trích đoạn Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Thái sư Trần Thủ Độ thể hiện một cách sâu sắc niềm tự hào của Ngô Sĩ Liên về những bậc anh hùng dân tộc, những điển hình yêu nước tiêu biểu của nhân dân, đất nước. Niềm tự hào đó được thể hiện trong nghệ thuật xây dụng nhân vật và cảm hứng ngợi ca nhân cách tuyệt đẹp của Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ. Trong Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Ngô Sĩ Liên đã xây dựng một bức chân dung tuyệt đẹp về một con người toàn đức toàn tài. Qua lời phân tích cặn kẽ với vua về cách đánh giặc, cách giữ nước khi ông lâm bệnh, bất cứ ai cũng nhận thấy tinh thần hết lòng lo tính kế sách giúp vua giữ nước an dân của Quốc Tuấn. Suốt cuộc đời, Trần Quốc Tuấn đã thờ trọn chữ “trung”. Lòng trung của ông được đặt trong hoàn cảnh thử thách đặc biệt. Trần Quốc Tuấn không quên mối hiềm khích giữa cha ông (An Sinh Vương) và Trần Thái Tông. Ông cũng không quên lời dặn dò của cha mình trước khi lâm chung. Bản thân ông cũng bị đặt trong mối mâu thuẫn giữa “hiếu” và “trung”. Nhưng khi đươc nắm binh quyền trong tay, Trần Quốc Tuấn đã đặt “trung” lên trước “hiếu”, đặt nợ nước lên tình nhà. Hay nói cách khác, ông đã không hiểu chữ “hiếu” một cách cứng nhắc. “Trung” và “hiếu” đều bị chi phối bởi nghĩa lớn đối với đất nước. Thái độ của Trần Quốc Tuấn đối với Yết Kiêu, Dã Tượng (cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người), đối với Hưng Vũ Vương (ngầm cho là phải) và đối với Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tuấn (rút gươm kể tội) khi nghe câu trả lời của họ càng tôn thêm lòng trung nghĩa của ông. Có thể nhận thấy ở Trần Quốc Tuấn tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước. Lòng trung quân ái quốc của trần Quốc Tuấn lại đi vùng với tài năng mưu lược. Ông đã phò giúp hai vị vua nhà Trần chống giặc ngoại xâm, trấn an nhân dân. Tài đức của ông khiến quân giặc phương Bắc còn khải kính cẩn, nể sợ: Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Vương Vương Trần Quốc Tuấn mà không dám gọi tên. Ông để lại câu nói đầy dũng khí: “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng” và cống hiến cho đời sau những tác phẩm quân sự có giá trị (Binh gia diệu lí yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư). Qua cách ông trình bày với vua về thời thế, tương quan ta – địch, sách lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là chú trọng đoàn kết sức mạnh toàn dân, có thể thấy rõ tầm nhìn sáng suốt, xa rộng của vị tướng tài ba. Không chỉ trung quân ái quốc, tài năng mưu lược, Trần Quốc Tuấn còn là người có đức độ lớn lao. Dù được vua trọng đãi rất mực nhưng ông luôn khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết làm tôi. Ông chủ trương khoan thư sức dân, vì hiểu dân là gốc của nước. Ông tận tình với tướng sĩ dưới quyền, soạn sách dạy bảo, khích lệ, ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Giã Tượng, Yết Kiêu, là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. Ông cẩn thận tính toán phòng xa việc hậu sự của mình. Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, ông còn linh hiển phù trợ dân chống lại tai nạn,dịch bệnh: Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp bưng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn. Cuộc đời Trần Quốc Tuấn có bao nhiêu câu chuyện đáng được kể để nêu gương nhưng người viết đã biết chọn lọc những câu chuyện tiêu biểu nhất, hàm súc nhất để ca ngợi vẻ đẹp nhân cách của ông. Không có một sự thấu suốt, am hiểu, không có thái độ tôn kính, Ngô Sĩ Liên không thể viết nên câu chuyện ngắn mà thấm đẫm niềm tự hào như thế. Một nhân vật lịch sử khác được Ngô Sĩ Liên lựa chọn để ngợi ca chính là Trần Thủ Độ. Khác với cách xây dựng chân dung Trần Quốc Tuấn, ở hình tượng này, tác giả lại đặt nhân vật của mình vào những hoàn cảnh có phần gai góc để nhân vật tự bộc lộ mình. Khi có người hặc tội chuyên quyền của Trần Thủ Độ với vua, Trần Thủ Độ không những biện bạch cho bản thân và tỏ lòng thù oán, tìm cách trừng trị mà còn công nhận lời nói phải, lại còn thưởng xuyên cho người dám dũng cảm vạch tội lỗi của mình. Qua đó có thể thấy ông là người phục thiện, công minh, độ lượng và có bản lĩnh. Nghe Linh Từ Quốc Mẫu khóc và mách về tên quân hiệu không cho đi qua thềm cấm, Trần Thủ Độ không bênh vợ bắt tội tên quân hiệu mà tìm hiểu rõ sự việc rồi còn khen thưởng kẻ giữ đúng luật pháp. Câu chuyện thứ hai này thể hiện sự chí công vô tư, tôn trọng pháp luật, không thiên vị người thân trong nhân cách Trần Thủ Độ. Có người chạy chọt nhờ Linh Từ Quốc Mẫu xin cho làm chức câu đương – một chức dịch nhỏ trong xã, nhưng ông đã dạy thêm cho tên này một bài học: muốn làm chức quan ấy hắn phải chịu chị chặt một ngón chân để phân biệt với những người khác do xứng đáng mà được cử. Qua đó, có thể thấy ông giữ gìn sự công bằng của phép nước, bài trừ tệ nạn chạy chọt, đút lót, dựa dẫm thân thích. Và chuyện thứ tư, vua muốn phong chức tướng cho An Quốc, anh của Trần Thủ Độ nhưng ông thẳng thắn trình bày quan điểm: chỉ nên lựa chọn người giỏi nhất, không nên hậu đãi cả hai an hem sẽ làm rối việc triều đình. Câu chuyện cho thấy Trần Thủ Độ luôn đặt việc công lên trên, không tư lợi, gây bè kéo cánh. Có thể nói chí công vô tư, thẳng thắn, cầu thị, độ lượng, nghiêm minh là những phẩm chất đáng quí trong nhân cách của Trần Thủ Độ khiến tác giả Đại Việt sử kí toàn thư không thể không đề cao, kính mến. Những phẩm chất của Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ là những phẩm chất làm nên nhân cách bất tử, vĩ đại của hai người con trong lòng dân tộc. Những câu chuyện ngắn của Ngô Sĩ Liên đã khắc họa chân dung nhân cách tuyệt đẹp của hai con người. Thái độ tự hào, ngợi ca, kính trọng công đức, tài trí đối với Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ chính là biểu hiện lòng yêu nước của sử gia vĩ đại. Cùng với nhiều sáng tác thơ văn khác, Đại Việt sử kí toàn thư nói chung và hai đoạn trích nói riêng đã làm nên diện mạo nội dung yêu nước của văn học trung đại Việt Nam. Nguyễn Tuyến tổng hợp Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Văn mẫu lớp 10Đánh giá bài viết Từ khóa tìm kiếmnhân cách vĩ đại và sự bất tử của trần quốc tuấnsoạn bài hưng dạo dại vuong tran quoc tuanvẻ đẹp của trần hưng đạo đại vương Có thể bạn quan tâm?Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu – Văn mẫu lớp 10Nghị luận xã hội về tác hại của thuốc lá – Văn mẫu lớp 10Phân tích bài thơ Nhàn – Nguyễn Bỉnh Khiêm – Văn mẫu lớp 10Phân tích đoạn trích Chiến thắng Mtao-Mxây – Văn mẫu lớp 10Phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy – Văn mẫu lớp 10Nghị luận xã hội về câu nói: Tình thương là hạnh phúc của con người – Văn mẫu lớp 10Phân tích bài Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) – Văn mẫu lớp 10Thuyết minh về Dân ca quan họ Bắc Ninh – Văn mẫu lớp 12

Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 1

Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng của Đại Việt thuở "Bình Nguyên", văn võ toàn tài, tên tuổi gắn liền với chiến công Bạch Đằng giang bất tử. Trong “Đại Việt sử kí toàn thư”, nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã dành những lời đẹp nhất ca ngợi đức độ, tài năng của Hưng Đạo Đại Vương.

Phần đầu nói về kế sách giữ nước của Trần Quốc Tuấn. Có thể nói đây là những lời vàng ngọc của vị thánh nhân Đại Việt khi vua Trần ngự tới thăm ông và hỏi ông: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?

Đại Vương đã nhắc lại những kinh nghiệm lịch sử, những bài học lịch sử: Triệu Vũ dùng kế "thanh dã” và phục kích mà đánh tan quân nhà Hán; đời nhà Đinh, nhà Lê thì “dùng người tài giỏi”, “trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống”. Thời nhà Lí, nhờ "có thế” mà Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm đến trận Mai Lĩnh. Thời nhà Trần, khi Tọa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây”, nhưng “vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt”. Giặc dùng trường trận thì ta dùng đoàn binh để chế ngự, để tuỳ thời tạo thế, và phải có một đội quân "một lòng như cha con Thượng sách giữ nước là "khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.

Mưu lược trong dụng binh, xây dựng quân đội (phụ tử chi binh), dùng đoản binh chế trường trận, bồi dưỡng sức dân, thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc – là những bài học sâu sắc để giữ nước và dựng nước mà Trần Quốc Tuấn để lại cho dân tộc ta muôn đời sau.

Phần thư hai, Ngô Sĩ Liên nói về tư chất và tính cách của Trần Quốc Tuấn. Ông là con Yên Sinh Vương Trần Liễu. Lúc mới sinh ra, có một ông thầy tướngxem cho và bảo: “người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Lớn lên, TrầnQuốc Tuấn “dungmạo khôi ngô”, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ”.

Tác giả kể lại mối hiềm khích giữa An Sinh Vương và Trần Thái Tông, lời trăng trối của cha, Trần Quốc Tuấn chí “ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”. Chuyện Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn nói với Dã Tượng, Yết Kiêu, với các con, và thái độ của ông, lúc thì "cảm phục đến khóc, khen ngợi… lúc thì “ngầm cho là phải ”, lúc thì nổi giận quát Quốc Tảng là “tên loạn thần…đứa con bất hiếu ”, rút gươm toan chém – tất cả đều thể hiện tấm lòng trung nghĩa của vị Quốc công, xoá hận thù riêng, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết.

Phần thứ ba nói vềđức độ “kính cẩn giữ tiết làm tôi” của Trần Quốc Tuấn. Tuy chức trọng quyền cao, được nhà vua cho phép ông được quyền phong tước cho người khác, nhưng "Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào”. Vì thế, mùa thu ngày 20 tháng 8 ta (năm 1300), ông mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, nhà vua và triều đình đã tặng ông là "Thái sưThượng phụ Thượngquốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại VươngVua Thánh Tông soạn bài văn bia, ví ông với Thượng phụ ngày xưa. Điều đó cho biết Trần Quốc Tuấn được trọng vọng như thế nào.

Qua đoạn trích, ta thấy Ngô Sĩ Liên đã kể lại những mẩu chuyện rất cụ thể và cảm động để làm nổi bật tài năng và đức độ của Trần Quốc Tuấn. Nghệ thuật thuyết minh kết hợp với tự sự để khắc họa chân dung nhân vật lịch sử cho thấy ngòi bút bình sử của Ngô Sĩ Liên thật đặc sắc.

Phần cuối nói về sự linh nghiệm, ứng nghiệm, sự hiển linh của Hưng Đạo Vương, đặc biệt là hình ảnh "tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn ” rất giàu ý nghĩa. Điều đó nói lên Trần Quốc Tuấn là hồn thiêng Đại Việt, tình yêu nước thương dân và khí phách anh hùng của ông đã trở thành bất tử trong lòng người; nhân dân tôn kính và ngưỡng mộ ông vô cùng.

Các tác phẩm của Trần Quốc Tuấn như “Binh gia diệu lí yếu lược”, “Vạn Kiếp tôngbí truyền thư” là tinh hoa, là tài sản tinh thần vô giá của Đại Việt. Ngô Sĩ Liên đã nhắc lại một số tên tuổi như Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu … là để ca ngợi cái tài “dùng người ” và "khéo tiến cử người tài giỏi ” cho đất nước, khẳng định Đại Vương "có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy”. Câu nói của Trần Quốc Tuấn trả lời Trần Thánh Tông khi thế nước ngàn cân treo sợi tóc: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng ” là tượng trưng cho khí phách Đại Việt, cho "hào khí Đông A ” sáng rực đến nghìn thu.

Qua đoạn trích "Đại Việt sử kí toàn thư”, ta cảm thấy Ngô Sĩ Liên đã dựng nên một tượng đài kì vĩ, tráng lệ về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người anh hùng có công lớn nhất trong ba lần kháng chiến đánh thắng giặc Nguyên – Mông.

Kết hợp thuyết minh với tự sự bằng những mẩu chuyện sống, giọng văn thâm trầm, Ngô Sĩ Liên đã tạo nên một bài bình sử đặc sắc, đem đến nhiều lí thú cho người đọc.

Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 2

Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên là tập biên niên sử nhưng mang đậm chất văn học (theo tinh thần “vãn sử bất phân” của thời trung đại). Mỗi nhân vật, sự kiện lịch sử được đề cập đến thường kèm theo những câu chuyện sinh động, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Chân dung các nhân vật lịch sử thường được tác giả khắc hoạ khá sắc nét. Đoạn trích Hưng Đạo Dại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cách viết nói trên.

Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. ông giữ vai trò trụ cột của nhà Trần và là vị tướng có đóng góp to lớn trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Với tẩm vóc lịch sử quan trọng và những phẩm chất tốt đẹp của một vị tướng tài, sau khi mất, ông đã được nhân dân thần thánh hoá và được lập đền thở trên khắp nước Nam.

Qua bài viết, tác giả Ngô Sĩ Liên đã xây dựng thành công một hình tượng đẹp đẽ vế người anh hùng văn vỗ song toàn. Những câu chuyện phản ánh cách ứng xử của Trần Hưng Đạo đối với nhà vua, với các tướng lĩnh, với người thân và những mẩu chuyện nhỏ về đời riêng đã thể hiện tính cách và phẩm chất quý báu của ông.

Nhân vật Trần Quốc Tuấn được tác giả miêu tả trong nhiều mối quan hệ và trong những tình huống thử thách, qua đó làm nổi bật phẩm chất của ông ở nhiều phương diện. Nhà viết sử đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật lịch sử sống động bằng những chi tiết chọn lọc đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Cách kể chuyện về một nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử kí toàn thư không đơn điệu theo trình tự thời gian. Chúng ta có thể thấy được mạch kể của bài viết như sau:

Mở đầu tác giả nêu lên sự kiện khác thường để tạo ra một mốc thời gian đáng chú ý: Tháng 6, ngày 24, sao sa. Với quan niệm “thiên nhân tương dữ" tức là giữa trời và người có quan hệ chặt chẽ với nhau thì sao sa là điểm xấu, dự báo một nhân vật có vai trò trọng yếu đối với quốc gia (vua, tướng quốc, anh hùng có công lớn với dân tộc) sắp qua đời. Điềm báo này ứng vào việc Hưng Dạo Dại Vương ốm.

Hưng Dạo Dại Vương ốm, vua ngự tới thăm và ông đả dặn dỏ vua những điều tâm huyết. Vậy, Hưng Dạo Dại vương là ai? Đó là Trần Quốc Tuấn với những nét riêng về hoàn cảnh xuất thản, về tướng mạo và những sự kiện đáng chú ý trong đời. Sau khi Trần Quốc Tuấn mất, ông được vua phong tặng rất trọng hậu vì có-nhiều công lao to lớn đối với đất nước và có phẩm chất, đức độ đáng kính phục.
Cách kể chuyện mạch lạc, khúc chiết của tác giả vừa giúp người đọc hình dung được nhân vật là ai, có những đặc điểm gì đáng đưa vào lịch sử, vừa giữ được mạch chuyện với những chi tiết sinh động, hấp dẫn, làm rõ nét chân dung nhân vật.

Phẩm chất nổi bật nhất của Trần Quốc Tuấn là lòng trung quân ải quốc. Lỏng trung quân của ông thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm cao đối với sơn hà xã tắc. Khi được nhà vua hỏi về việc chống giặc: Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc sang xâm lược thì kế sách như thố nào ? thì Hưng Đạo Đại Vương đã hiến những kế sách đủng đắn và sáng suốt:
Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế " thanh dã ”, đại quân ra Khẳm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Dời Dinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam môi mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lí mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đốn tận Mai Lĩnh là vì có thê. Vừa rổi Toa Đô, ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đổng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Dại khải, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cở vậy, tuỳ thời tạo thố, có được đội quân, một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.

Sau khi đưa ra những bài học trị nước, Trẩn Quốc Tuấn đã khẳng định rằng trị nước là một công việc phức tạp, khó khăn, sự thành bại phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Tuỳ thuộc từng hoàn cảnh cụ thể mà đấng quân vương có kế sách phù hợp. Để chống giặc, có thể dùng kế thanh dã (vườn không nhà trống), biết dùng người tài giỏi và đoàn kết toàn dân, để lòng dân không lìa cũng là bài học quý giá. Kế sách trị nước còn là vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức để đánh đuổi ngoại xâm. Kế sách phù hợp ắt sẽ thành công. Câu trả lời của Hưng Đạo Đại Vương chứa đựng những kế sách trị nước quý giá, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một thiên tài. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng và tư tưởng thân dân. Hạt nhân của kế sách trị nước chính là khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc.

Qua lời lẽ Hưng Đạo Đại Vương trinh bày với vua vế thời thế, về mối tương quan giữa ta và địch, chiến lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là coi trọng đến sức mạnh đoàn kết toàn dân, chúng ta thấy rõ ông là nhà quân sư có tài năng kiệt xuất.
Vậy Hưng Đạo Đại Vương là ai? Tác giả lần lượt nêu vài nét chính trong tiểu sử và kể những cảu chuyện nhỏ về cuộc đời ông:
Quốc Tuấn – con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời". Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài vàn võ.

Lòng trung quân của Trần Quốc Tuấn dược đặt trong hoàn cảnh có nhiều thù thách: Mối hiểm khích giữa thân phụ của ông là An Sinh Vương Trấn Liễu với vua Trần. Thái Tông rất khó hoà giải. Trước khi qua đời, người cha trăng trối rằng: Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mất đưặc. Trần Quốc Tuấn ghi để điểu đó trong lòng, nhưng không cho là phải.

Bị đặt vào tinh thê' mâu thuẫn gay gắt giữa hiếu và trung, nhưng Trần Quốc Tuấn đã dặt chữ trung lên trên chữ hiếu, nợ nước lồn trên tinh nhà. Hay nói khác đi, ông đã không thực hiện đạo hiếu một cách cứng nhắc. Trung cũng như hiếu ở Trán Quốc Tuấn đểu được chi phối bởi nghĩa lớn là trách nhiệm đối với đất nước.

Vì thiết tha với vận mệnh đất nước nên Hưng Đạo Đại Vương luôn đặt lợi ích của dân tộc lẽn trên quyển lợi của bản thân và gia đình. Lúc đã nắm quyền hành trong tay, Trán Quốc Tuấn đem lời cha dặn ngày nào ra hỏi hai gia nô là Dã Tượng Yết Kiêu thì họ can ông:

Làm kế ấy tuy phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thổ xin chốt già làm gia nỗ, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu…

Thái độ của Yết Kiêu, Dã Tượng khiến Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Lần khác, Quốc Tuấn vờ hỏi con trai là Hưng Vũ Vương: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?". Hưng Vũ Vương trả lời: “Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ. Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con trai thú là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: “Tống Thải Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vặn nên có được thiên hạ". Quốc Tuấn rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra". Đinh giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin vội chạy tó khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mồi cho Quốc Tảng vào viếng".

Sau khi mất, Trần Quốc Tuấn được vua phong tặng rất trọng hậu: Thái su Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo Dại Vương. Nhà viết sử lí giải tại sao mà ông lại được phong tặng rất hậu như vậy. Thông thường, các nhản vật lịch sử sau khi chết mới được khẳng định tài nặng và nhân cách các quý qua hàng loạt chi tiết, sự việc đã được chọn lọc. Cách làm đó là theo tinh thần "cái quan định luận” có nghĩa là đóng nắp quan tài rồi mới có thể khẳng định đúng đắn về giá trị của nhân vật đó.

Ở đoạn này, tác giả nhận xét rằng đi đôi với lòng trung nghĩa và tài cầm quản dẹp giặc, Trần Quốc Tuấn còn có đức độ lớn lao. ống khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết của bề tôi dù được vua trọng đãi rất mực, luôn coi là bậc thượng phụ (lả thầy, là cha). Lúc ông còn sống, đích thân vua Thánh Tông đã soạn văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn và cho phép ông được quyền phong tước cho người khác… Nhưng óng chưa bao giờ phong tước cho một người nào.

Ông cẩn thận phòng xa trong việc hậu sự: Khi sắp mất, ông dặn con ràng “ Ta chết thì phải hoả táng, lấy vật tròn đựng xương, bỉ mật chôn trong vườn An Lạc, rói san đất và trồng cây .như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lạ phải làm sao cho mau mục. Ông tận tinh với tướng sĩ dưới quyền nên bỏ công soạn sách để dạy bảo khích lệ họ: Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền dẫn chuyện Kỉ Tín chết thay để cứu thoát Hân Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó.

Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp ở Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dù, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy.

Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi", Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đẩu tôi trước rồi hãy hàng. Vì thế, đời Trùng Hưng lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc. chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cấu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lể ở đền đình, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn. Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, Hưng Đạo Đại vương vẫn thường linh hiển để phò trợ dân chúng chống lại tai nạn, dịch bệnh và giặc ngoại xâm. ông đã thực sự trở thành một vị phúc thần của dân chúng. Có thể nói Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là mẫu mực của một vị tướng: ai đức vẹn toàn, không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quản giặc cũng vô cùng kính phục.

Qua đoạn trích, người đọc yêu mến, tự hào về vị anh hùng dân tộc Trẩn Quốc Tuấn và không quên những câu chuyện đầy ấn tượng về ông. Đó là mục đích và cũng là thành công của nhà viết sử Ngô Sĩ Liên. Ngày nay, ông đã được tôn vinh là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của thế giới, là Danh nhân văn hoá thế giới. Dân tộc Việt Nam rất tự hào về vị anh hùng kiệt xuất Trần Quốc Tuấn.

Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Ngô Sĩ Liên) – Bài số 3

Thời trung đại, văn – sử – triết bất phân là hiện tượng thường thấy trong một văn bản ngôn từ. Đó cũng chính là lí do khiến nhiều câu chuyện lịch sử lại có giá trị văn học lớn lao. Từ những trích đoạn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc một trong những nội dung quan trọng của văn học Việt Nam thời trung đại: tinh thần yêu nước.

Cùng với lòng nhân đạo, yêu nước là một trong các phẩm chất tuyệt đẹp của con người Việt Nam mọi thời đại. Một trong những biểu hiện của yêu nước là lòng tự hào dân tộc. Các trích đoạn Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Thái sư Trần Thủ Độ thể hiện một cách sâu sắc niềm tự hào của Ngô Sĩ Liên về những bậc anh hùng dân tộc, những điển hình yêu nước tiêu biểu của nhân dân, đất nước. Niềm tự hào đó được thể hiện trong nghệ thuật xây dụng nhân vật và cảm hứng ngợi ca nhân cách tuyệt đẹp của Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ.

Trong Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Ngô Sĩ Liên đã xây dựng một bức chân dung tuyệt đẹp về một con người toàn đức toàn tài. Qua lời phân tích cặn kẽ với vua về cách đánh giặc, cách giữ nước khi ông lâm bệnh, bất cứ ai cũng nhận thấy tinh thần hết lòng lo tính kế sách giúp vua giữ nước an dân của Quốc Tuấn. Suốt cuộc đời, Trần Quốc Tuấn đã thờ trọn chữ “trung”. Lòng trung của ông được đặt trong hoàn cảnh thử thách đặc biệt. Trần Quốc Tuấn không quên mối hiềm khích giữa cha ông (An Sinh Vương) và Trần Thái Tông. Ông cũng không quên lời dặn dò của cha mình trước khi lâm chung. Bản thân ông cũng bị đặt trong mối mâu thuẫn giữa “hiếu” và “trung”. Nhưng khi đươc nắm binh quyền trong tay, Trần Quốc Tuấn đã đặt “trung” lên trước “hiếu”, đặt nợ nước lên tình nhà. Hay nói cách khác, ông đã không hiểu chữ “hiếu” một cách cứng nhắc. “Trung” và “hiếu” đều bị chi phối bởi nghĩa lớn đối với đất nước. Thái độ của Trần Quốc Tuấn đối với Yết Kiêu, Dã Tượng (cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người), đối với Hưng Vũ Vương (ngầm cho là phải) và đối với Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tuấn (rút gươm kể tội) khi nghe câu trả lời của họ càng tôn thêm lòng trung nghĩa của ông. Có thể nhận thấy ở Trần Quốc Tuấn tinh thần yêu nước và ý thức trách nhiệm công dân đối với đất nước.

Lòng trung quân ái quốc của trần Quốc Tuấn lại đi vùng với tài năng mưu lược. Ông đã phò giúp hai vị vua nhà Trần chống giặc ngoại xâm, trấn an nhân dân. Tài đức của ông khiến quân giặc phương Bắc còn khải kính cẩn, nể sợ: Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Vương Vương Trần Quốc Tuấn mà không dám gọi tên. Ông để lại câu nói đầy dũng khí: “Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng” và cống hiến cho đời sau những tác phẩm quân sự có giá trị (Binh gia diệu lí yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư). Qua cách ông trình bày với vua về thời thế, tương quan ta – địch, sách lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là chú trọng đoàn kết sức mạnh toàn dân, có thể thấy rõ tầm nhìn sáng suốt, xa rộng của vị tướng tài ba.

Không chỉ trung quân ái quốc, tài năng mưu lược, Trần Quốc Tuấn còn là người có đức độ lớn lao. Dù được vua trọng đãi rất mực nhưng ông luôn khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết làm tôi. Ông chủ trương khoan thư sức dân, vì hiểu dân là gốc của nước. Ông tận tình với tướng sĩ dưới quyền, soạn sách dạy bảo, khích lệ, ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Giã Tượng, Yết Kiêu, là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. Ông cẩn thận tính toán phòng xa việc hậu sự của mình. Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, ông còn linh hiển phù trợ dân chống lại tai nạn,dịch bệnh: Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp bưng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.

Cuộc đời Trần Quốc Tuấn có bao nhiêu câu chuyện đáng được kể để nêu gương nhưng người viết đã biết chọn lọc những câu chuyện tiêu biểu nhất, hàm súc nhất để ca ngợi vẻ đẹp nhân cách của ông. Không có một sự thấu suốt, am hiểu, không có thái độ tôn kính, Ngô Sĩ Liên không thể viết nên câu chuyện ngắn mà thấm đẫm niềm tự hào như thế.

Một nhân vật lịch sử khác được Ngô Sĩ Liên lựa chọn để ngợi ca chính là Trần Thủ Độ. Khác với cách xây dựng chân dung Trần Quốc Tuấn, ở hình tượng này, tác giả lại đặt nhân vật của mình vào những hoàn cảnh có phần gai góc để nhân vật tự bộc lộ mình. Khi có người hặc tội chuyên quyền của Trần Thủ Độ với vua, Trần Thủ Độ không những biện bạch cho bản thân và tỏ lòng thù oán, tìm cách trừng trị mà còn công nhận lời nói phải, lại còn thưởng xuyên cho người dám dũng cảm vạch tội lỗi của mình. Qua đó có thể thấy ông là người phục thiện, công minh, độ lượng và có bản lĩnh.

Nghe Linh Từ Quốc Mẫu khóc và mách về tên quân hiệu không cho đi qua thềm cấm, Trần Thủ Độ không bênh vợ bắt tội tên quân hiệu mà tìm hiểu rõ sự việc rồi còn khen thưởng kẻ giữ đúng luật pháp. Câu chuyện thứ hai này thể hiện sự chí công vô tư, tôn trọng pháp luật, không thiên vị người thân trong nhân cách Trần Thủ Độ.

Có người chạy chọt nhờ Linh Từ Quốc Mẫu xin cho làm chức câu đương – một chức dịch nhỏ trong xã, nhưng ông đã dạy thêm cho tên này một bài học: muốn làm chức quan ấy hắn phải chịu chị chặt một ngón chân để phân biệt với những người khác do xứng đáng mà được cử. Qua đó, có thể thấy ông giữ gìn sự công bằng của phép nước, bài trừ tệ nạn chạy chọt, đút lót, dựa dẫm thân thích.

Và chuyện thứ tư, vua muốn phong chức tướng cho An Quốc, anh của Trần Thủ Độ nhưng ông thẳng thắn trình bày quan điểm: chỉ nên lựa chọn người giỏi nhất, không nên hậu đãi cả hai an hem sẽ làm rối việc triều đình. Câu chuyện cho thấy Trần Thủ Độ luôn đặt việc công lên trên, không tư lợi, gây bè kéo cánh. Có thể nói chí công vô tư, thẳng thắn, cầu thị, độ lượng, nghiêm minh là những phẩm chất đáng quí trong nhân cách của Trần Thủ Độ khiến tác giả Đại Việt sử kí toàn thư không thể không đề cao, kính mến. Những phẩm chất của Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ là những phẩm chất làm nên nhân cách bất tử, vĩ đại của hai người con trong lòng dân tộc.

Những câu chuyện ngắn của Ngô Sĩ Liên đã khắc họa chân dung nhân cách tuyệt đẹp của hai con người. Thái độ tự hào, ngợi ca, kính trọng công đức, tài trí đối với Trần Quốc Tuấn và Trần Thủ Độ chính là biểu hiện lòng yêu nước của sử gia vĩ đại. Cùng với nhiều sáng tác thơ văn khác, Đại Việt sử kí toàn thư nói chung và hai đoạn trích nói riêng đã làm nên diện mạo nội dung yêu nước của văn học trung đại Việt Nam. 

Nguyễn Tuyến tổng hợp

0