25/05/2018, 12:55

Hồ Học Lãm

(chữ Hán: 胡學覽; 1883?-1942), tự Hinh Sơn, là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại. Ông nội là Hồ Bá Ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh chống Pháp giữ thành Nam Định. Con cả của cụ Hồ Bá Ôn là Hồ ...

(chữ Hán: 胡學覽; 1883?-1942), tự Hinh Sơn, là một chí sĩ Việt Nam thời cận đại.

Ông nội là Hồ Bá Ôn, án sát tỉnh Nam Định, hy sinh năm 1883 trong trận đánh chống Pháp giữ thành Nam Định. Con cả của cụ Hồ Bá Ôn là Hồ Bá Kiện tham gia phong trào Văn Thân, bị Pháp bắt giam rồi bắn chết ở Lao Bảo. Con thứ hai là Hồ Thúc Linh đậu cử nhân, cũng hưởng ứng phong trào chống Pháp nên bị thực dân Pháp bắt giam và tra tấn. Ông là con của liệt sĩ Hồ Bá Trị và bà Trần Thị Trâm, quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông có họ hàng gần với nhà cách mạng Hồ Tùng Mậu, là cháu đích tôn của cụ Hồ Bá Ôn.

Thân phụ mất sớm vì bị thực dân Pháp giết hại năm 1885, ông và người anh Hồ Xuân Kiên do một tay thân mẫu nuôi nấng và giáo dục. Bà vốn là con gái Tiến sĩ Trần Hữu Dực, Tri phủ Vĩnh Tường; là một nhà hoạt động nổi tiếng từ thời Cần Vương, một cánh tay đắc lực của Phan Đình Phùng trong cuộc khởi nghĩa Vụ Quang, từng cùng với chí sĩ Thân Sơn Ngô Quảng sang Xiêm La mua súng cho nghĩa quân kháng Pháp. Do bà thường sắm vai buôn lụa để hoạt động nên có tên là "bà Lụa". Bà cũng là mẹ đỡ đầu của cô Chiêu Thanh (tức Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Nguyễn Tất Thành).

Do ảnh hưởng từ sự giáo dục của thân mẫu, ông sớm ý thức về lòng yêu nước, năm 1908, hưởng ứng phong trào Đông du, phong trào Duy tân, ông du học sang Nhật. Khi các du học sinh Việt Nam ở Nhật bị trục xuất, ông sang Trung Quốc vào học Trường Võ bị Bắc Kinh.

Tốt nghiệp, trở thành một sĩ quan trong quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng, nhưng trong lòng ông vẫn hướng về tổ quốc. Nhà ông là cơ sở đón tiếp các chiến sĩ cách mạng Việt Nam đến bàn việc cứu nước, giải phóng dân tộc. Một số nhà cách mạng từng lưu trú tại nhà ông như Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng...

Năm 1936, ông tham gia tổ chức Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội của hoàng thân Cường Để và dùng tiền riêng để ra một tờ tạp chí nhỏ bằng chữ Hán lấy tên là Việt Thanh. Nhưng tổ chức này chỉ hoạt động được trong một thời gian ngắn. Tờ Việt Thanh chỉ ra được 3 - 4 số thì đình bản vì hết kinh phí. Cái tên Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội chỉ còn nằm trong sổ đăng ký của Văn phòng Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc. Sau ông gia nhập Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội và giữ chức Ủy viên Huấn luyện.

Năm 1940, ông ốm nặng, phải nằm bệnh viện tại Quế Lâm.

Cuối năm 1940, tình hình cách mạng đã thay đổi, được sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, Biện sự xứ hải ngoại của Việt Minh được thành lập ở Quế Lâm, được mời làm Chủ nhiệm[2], Phạm Văn Đồng làm Phó chủ nhiệm. Hội Trung–Việt văn hóa cách mạng đồng chí được thành lập, và Phạm Văn Đồng đều tham gia Ban lý sự với tư cách là chánh, phó Chủ nhiệm Việt Minh. Khi đó, cái tên Việt Minh mới nổi bật lên và tác dụng tích cực của nó mới được phát huy một cách thích đáng.

Ông mất năm 1942.

Ông có vợ là bà Ngô Khôn Duy và hai con gái là Hồ Diệc Lan và Hồ Mộ La.

Bà Hồ Diệc Lan, kết hôn với Thiếu tướng Lê Thiết Hùng, vị tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhưng mất sớm (năm 1947, ở tuổi 27) và chưa có con. Khi bà Hồ Diệc Lan mất, báo Cứu quốc Liên khu IV có đăng lời chia buồn và ông Phạm Văn Đồng cũng gửi lời chia buồn đến bà Hồ Diệc Lan.

Bà Hồ Mộ La sau này là giảng viên trường nhạc Hà Nội.

Ông là người sáng lập ra Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội tại Nam Kinh vào năm 1936, làm tổ chức cơ sở cách mạng cho người Việt ở hải ngoại. Về sau một tổ chức khác với tên gọi này lại được Nguyễn Ái Quốc tái thành lập và tổ chức trong nước vào năm 1941, và được nhiều người biết đến với tên gọi Việt Minh.

0