Hình tượng người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua hai bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương và Tự tình II của Hồ Xuân Hương (Bài 3)
Nói về đề tài người phụ nữ, văn học Việt Nam có bao tác phẩm hay, xuất sắc, đậm chất chữ tình về chủ đề ấy. Với tôi, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các bài thơ "Bánh trôi nước", "Tự tình" (bài 2) của Hồ Xuân Hương và "Thương vợ" của Trần Tế Xương nói về hoàn cảnh, ...
Nói về đề tài người phụ nữ, văn học Việt Nam có bao tác phẩm hay, xuất sắc, đậm chất chữ tình về chủ đề ấy. Với tôi, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua các bài thơ "Bánh trôi nước", "Tự tình" (bài 2) của Hồ Xuân Hương và "Thương vợ" của Trần Tế Xương nói về hoàn cảnh, cuộc sống của những người phụ nữ phải chịu nhiều nỗi khổ đau của số phận, bị chà đạp về thể xác, sự đau đớn khi bị vùi dập trước hoàn cảnh sống..., nhưng trong con người họ toát lên vẻ đẹp của ...
Bằng những câu thơ chân thực, mộc mạc, giản dị giàu cảm xúc, đậm chất trữ tình mà Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã nói lên được số phận của người phụ nữ xưa. Đó là những con người phải chịu nhiều nỗi khổ đau. Qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" mà Trần Tế Xương đã làm nổi bật nên được sự khổ cực vì vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bà Tú hiện lên với cuộc sống vất vả, lam lũ, gian truân, bà làm công việc chợ búa, buôn bán vất vả "quanh năm".
"Quanh năm buôn bán ở mom sông".
Cái thời gian "quanh năm" ấy gợi cho ta một cảm giác của sự liên hoàn nối tiếp của thời gian, của ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Một vòng tròn khép kín cuộc đời bà Tú. Tưởng chừng, công việc buôn bán của bà là dễ dàng và ai cũng làm được. Nhưng không, công việc của bà vất vả và nguy hiểm vì bà Tú buôn bán ở nơi "mom sông". Bà Tú còn hiện lên trong hình ảnh "thân cò", một hình ảnh đẹp trong ca dao để nói lên bà là một người phụ nữ đảm đang, vừa cho ta thấy nỗi vất vả, gian truân của bà. Đó là sự lo âu, hiểm nguy trước cái rợn ngợp của thời gian "quanh năm", và cái heo hút của không gian nơi "mom sông". "Thân cò" gợi một cảm giác nhỏ bé của bà Tú trước thời gian và không gian mênh mông, gợi nên một sự xót xa cho thân phận nhỏ bé của bà.
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông".
Hình ảnh "lặn lội thân cò" gợi cho người đọc về một cuộc sống vất vả, tần tảo, lam lũ của bà Tú nơi "quãng vắng". Hình ảnh "đò đông" nói về sự nguy hiểm trong việc đi lại, buôn bán của bà. Đó là nơi ồn ào, xô bồ cuộc sống nơi chợ búa với những tiếng kì kèo, kêu ca "eo sèo" đã gợi một nỗi đau về mặt tinh thần của bà Tú. Tất cả những hình ảnh đó làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân, một cuộc sống lam lũ, khó khăn trong cuộc đời bà. Suốt cuộc đời bà chỉ là một con người nhỏ bé mà thôi !.
Đến với thơ Hồ Xuân Hương thì người phụ nữ phải gánh chịu nỗi khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình qua bài thơ "Bánh trôi nước". Qua miêu tả chiếc bánh trôi mà tác giả đã nói lên được thân phận của người phụ nữ.
"Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non".
Hình ảnh người phụ nữ ẩn chứa trong chiếc bánh trôi nước "vừa trắng lại vừa tròn" nhưng phải chịu một cuộc sống trôi nổi bấp bênh "bảy nổi ba chìm". Chiếc bánh ấy có đẹp hay chăng, rắn nát chăng đi nữa thì phải phụ thuộc vào người nặn ra chiếc bánh ấy. Một chiếc bánh được nặn đẹp. xinh xắn thì không có gì phải chê, nhưng mà bị làm cho nát hình dạng xấu xí thì sao nhỉ ? Đó là do bàn tay của kẻ nặn bánh mà thành.
"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn".
Cũng như người phụ nữ, nếu gặp được bến đỗ tốt thì cuộc đời sẽ tươi đẹp, còn rơi vào tay kẻ xấu họ cũng sẽ như chiếc bánh trôi kia, bị vùi dập, tàn tạ trước sóng gió cuộc đời.
Hồ Xuân Hương - Phụ nữ trong văn học Việt Nam
Vẫn thơ Hồ Xuân Hương, ta còn thấy người phụ nữ phải chịu khổ đau về tinh thần, vì cô quạnh, thiếu vắng tình yêu, không được yêu thương và sự đồng cảm qua bài thơ "Tự tình" (bài 2). Người nữ sĩ buồn tủi cô đơn một mình giữa cái "đêm khuya" lạnh lẽo.
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non".
"Đêm khuya" một thời gian muộn trong đêm nhưng người nữ sĩ ấy vẫn thức, ẩn chứa trong lòng là sự thao thức, thấp thỏm không yên. Không gian đêm yên tĩnh, vắng lặng mà đâu đó đã nghe tiếng "văng vẳng" từ xa vọng lại, mập mờ không rõ làm cho người nữ sĩ càng thêm bối rối trong lòng. Tiếng "trống canh dồn" gợi sự dồn dập, gấp gáp, diễn tả được bước đi của thời gian trong đêm. Tác giả sử dụng một động từ "trơ", một động từ gây cảm giác mạnh với người đọc thể hiện sự lẻ loi, vô duyên của thân phận người phụ nữ. Trơ cái gì? Đó là "cái hồng nhan" gợi một cảm giác về sự rẻ rúng, mỉa mai, nhỏ bé với không gian toàn cảnh, có tầm vóc vũ trụ "nước non". Qua đó thể hiện sự cay đắng, xót xa về thân phận, sự cô đơn, lẻ loi của nữ sĩ. Nỗi niềm của tác giả còn thể hiện ở thực cảnh bế tắc, nhân duyên không trọn vẹn.
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".
"Chén rượu hương đưa" diễn tả tâm trạng về nỗi đau thân phận, sự bế tắc quẩn quanh, tình duyên trở thành trò đùa của Tạo hóa. Rượu không thể làm cho ta vơi đi nỗi buồn vì "say" rồi lại "tỉnh". Thời gian " vầng trăng bóng xế" như gợi nhắc đến tháng năm, tuổi tác nhưng lại "khuyết chưa tròn" thể hiện sự thiếu vắng, không trọn vẹn, nỗi buồn tủi vì tuổi xuân sắp qua mà tình duyên chưa đến. Những hình ảnh buồn cô đơn nhuốm màu tâm trạng nữ thi sĩ.
Tiếp đến, họ là những con người đẹp, không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài mà họ là những phụ nữ đẹp ở phẩm chất, đức tính cao đẹp. Đó là tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng con. Bà Tú đã hi sinh hết mình vì chồng con, kiếm sống, lao động vất vả để "nuôi đủ năm con với một chồng". Bà cũng chính là chỗ dựa, là niềm tin cho chồng con. Bà cần cù chu đáo với chồng con mà không một lời ca thán, oán trách. Gánh nặng đè lên đôi vai bà là cả một trách nhiệm to lớn. Duyên số đã đưa đẩy bà gặp ông Tú nhưng đối với bà đó cũng là cái "nợ". Nợ là trách nhiệm mà bà phải trang trải, dẫu sao cũng là số phận của bà. Bà Tú cam chịu số phận, mà con Tạo đã trớ trêu trong cuộc đời bà. Bà chịu "năm nắng mười mưa" mà nào "dám quản công" để làm việc kiếm sống. Đó là sự hi sinh chịu đựng gian khổ và mất mát của bà Tú. Ở bà hiện lên một đức tính hi sinh cao cả, sự đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ.
Với "Bánh trôi nước" thì vẻ đẹp ấy là lòng dạ sắt son vẫn được giữ vẹn, không để mất đi trong cuộc đời chìm nổi lênh đênh.
"Mà em vẫn giữ tấm lòng son".
Người phụ nữ cho dù bị vùi dập về nhân cách, thân xác nhưng họ vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, sắt son không đổi trong cuộc đời bấp bênh, chìm nổi với "nước non". Hình ảnh "tấm lòng son" là hình ảnh đẹp về người phụ nữ chung thủy, sắt son mà Hồ Xuân Hương đã gửi gắn vào "Bánh trôi nước".
Đẹp hơn thế nữa, Hồ Xuân Hương đã đưa người phụ nữ lên một vẻ đẹp mới trong bài thơ "Tự tình" (bài 2). Đó là một tinh thần mạnh mẽ, dám vượt lên đau đớn để được hạnh phúc mà mình hằng khao khát.
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn".
Hai câu thơ thể hiện một sức sống mạnh mẽ, khỏe khoắn bằng hai hình ảnh độc đáo. Những đám rêu vốn mềm mại, yếu ớt dưới cái nhìn của tác giả bỗng dưng "xiên ngang mật đất" mà trỗi dậy. Mấy hòn đá tưởng chừng như bất động đứng đó từ bao đời trong con mắt tác giả dường như "đâm toạc chân mây". Những sự vật tưởng như vô hồn, bất động được nhà thơ truyền thêm sự sống để trỗi dậy. Qua đó đã nói lên được khát vọng sống, niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc của người phụ nữ. Họ không cam chịu, chấp nhận số phận mà đứng lên đấu tranh giành hạnh phúc, tình yêu cho mình.
Hình ảnh người phụ nữ là hiện thân cho nỗi khổ đau của con người trong xã hội xưa, đồng thời là sự kết tinh của những đức tính truyền thống đẹp đẽ mà dân tộc Việt Nam đã tích lũy được trong hàng ngàn năm lao động và đấu tranh mà Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương muốn gửi gắm cho người đọc.