24/05/2018, 16:39

Hiệu quả sử dụng và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp

Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động của mỗi doanh nghiệp, người ta thường sử dụng thước đo là hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh ...

Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động của mỗi doanh nghiệp, người ta thường sử dụng thước đo là hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu câu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng

Thật vậy, sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có tầm quan trọng, quyết định đến hiệu quả của kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, một doanh nghiệp quản lý tài chính yếu kém, không bảo toàn được vốn, để mất vốn, sử dụng vốn không tiết kiệm, sai mục đích, doanh thu không đủ bù đắp chi phí, tình trạng thua lỗ kéo dài thì ta có thể nói doanh nghiệp đó sử dụng vốn kém hiệu quả. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách bảo toàn, sử dụng vốn có hiệu quả và phải có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề không đơn giản và không phải doanh nghiệp nào cũng làm được, nhất là trong điều kiện nền kinh tế còn chưa ổn định.

Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn, làm cho đồng vốn sinh lời tối đa, nhằn mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua các chỉ tiêu về hiệu suất, hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, mức sinh lời và tốc độ chu chuyển của vốn lưu động... Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Kết quả thu được càng cao so với chi phí bỏ ra thi hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kện quả trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh.

Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là tất yếu khách quan và nó có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đói với nền kinh tế nói chung, đặc biệt là trong cơ chế hiện nay.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó, các doanh nghiệp sẽ có đủ vốn và đảm bảo khả năng thanh toán, khắc phục cũng như giảm bớt những rủi ro trong kinh doanh.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ,nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dang hoá mẫu mã sản phẩm...doanh nghiệp phải có vốn. Trong điều kiện vốn của doanh nghiệp có hạn việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết.

- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động...Khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm và mức sống cho người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng xuất lao động ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách nhà nước.

Nguyên tắc cơ bản để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.

Như trên đã phân tích, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Do đó, cac doanh nghiệp phải luôn tìm biện pháp để nâng cao khả năng sử dụng nguồn vốn của mình. Trong thực tế, các doanh nghiệp đều thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tuỳ thuộc vào từng ngành nghề, quy mô vốn cũng như uy tín của doanh nghiệp. Nhưng các biện pháp này dù khác nhau song đều theo nguyên tắc nhất định, đó là sử dụng hiệu quả ‘bảo toàn phát triển vốn”.

Một doanh nghiệp khó có thể tồn tại và phát triển khi mà nguồn vốn của nó lại giảm dần đi. Để duy trì sản xuất kinh doanh, nguồn vốn của doanh nghiệp phải vận động không ngừng kết thúc mỗi vòng chu chuyển, vốn phải được giữ nguyên gia trị. Bảo toàn vốn là điều kiện trước tiên để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Yêu cầu bảo toàn vốn là thực chất là duy trì giá trị, sức mua, năng lực của nguồn vốn chủ sở hữu và mặc dù cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay nợ khác, song mọi kết quả sản xuất kinh doanh cuối cùng đều phản ánh vào sự tăng giảm vốn chủ sở hữu. Một dự án mà doanh nghiệp tài trợ bằng nguồn vốn vay bị thua lỗ thì những thua lỗ đó doanh nghiệp phải chịu doanh nghiệp bằng chính nguồn vốn của mình. Như vậy thua lỗ của doanh nghiệp với mọi khoản đầu tư dù được tài trợ bằng nguồn vốn nào cuối cùng cũng làm giảm nguồn vốn chủ sở hữu.

- Một đặc trưng cơ bản của vốn là tính giá trị về mặt thời gian. Điều này vốn ứng ra đầu tư chẳng những phải thu hồi được đủ giá trị ban đầu mà giá trị nhận được càng phải lớn giá trị ban đầu. Có như vậy mới thoả mãn được giá trị của nhà đầu tư. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, chỉ có sản xuất và tái sản xuất liên tục thì doanh nghiệp mới có thể đúng vững và chiến thắng trong cạnh tranh. Yều cầu phát triển vốn là điều kiện tiên quyết để khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường. Thực chất của việc phát triển vốn là không ngừng làm tăng tiềm lực tài chính cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu phải được tăng gia tăng cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối. Như vậy, bảo toàn và phát triển vốn là nguyên tắc của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp.

Tóm lại, thực chất của việc bảo toàn vốn là giữ được giá trị thực tế hay sức mua của vốn (thể hiện bằng tiền), giữ được khả năng chuyển đổi so với các loại tiền khác tại một thời điểm nhất định. Nói cách khác, bảo toàn vốn chính là bảo toàn giá trị của các nguồn vốn khác. Việc đánh giá khả năng bảo toàn vốn của doanh nghiệp được tính bằng cách so sánh số vốn hiện có của doanh nghiệp so với số vốn của doanh nghiệp phải bảo tồn theo ký kết giao nhận vốn hoặc theo kỳ trước.

Số vốn hiện có của doanh nghiệp

Hệ số bảo tồn vốn=

Số vốn doanh nghiệp phải bảo tồn

Nếu hệ số bằng 1, tức là doanh nghiệp phải bảo toàn được vốn, lớn hơn 1 tức là doanh nghiệp không bảo toàn được vốn mà cón phát triển được vốn. Ngược lại, nếu nhỏ hơn 1, tức là doanh nghiệp không bảo toàn được vốn. Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải lấy thu nhập để bù. Vì vậy, cần tính thêm hệ số khả năng an toàn:

Các biện pháp bảo toàn và phát triển vốn của các doanh nghiệp như là:

-Thực hiện đúng chế độ quản lý, sử dụng vốn, tài sản, theo quy định của nhà nhà nước và theo thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày 7/6/1999.

-Thực hiện việc mua bảo hiểm tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Việc mua bảo hiểm được hạch toán chi phí sản xuất, kinh doanh.

-Doanh nghiệp được hạch toán vào chi phí kinh doanh, chi phí hoạt động khác các khoản dự phòng sau :

+ Dự phòng giảm giá hàng tồn kho : là khoản giảm giá vật tư, hàng hoá tồn kho dự kiến sẽ xẩy ra trong kỳ kinh doanh tiếp theo.

+Dự phòng các khoản nợ phải thu hồi khó đòi : Là các khoản phải dự kiến không được trong kỳ kinh doanh tới do khách hàng nợ không có khả năng thanh toán .

+ Dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính. Việc lập và sử dụng các khoản dự phòng nói trên thực hiện theo quy định hiện hành .

+ Dự phòng các khoản giảm giá giữa đồng Việt Nam so với đồng ngoại tệ khác .

+ Dùng lãi năm sau để bù lỗ cho các năm trước

+Được hạch toán một số thiệt hại vào chi phí hoặc kết quả kinh doanh theo chế độ nhà nước quy định .

Chỉ tiêu xác định hiệu quả sử dụng vốn.

Trong nền kinh tế thị trường, mục đích duy nhất của mọi doanh nghiệp là sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả nhất định, lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo cho mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là lợi ích kinh tế đạt được sau khi đã bù đắp một khoản chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh. Như vậy, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh với chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Do đó, hiệu quả kinh doanh được xác định dưới hai góc độ: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.

- Hiệu quả kinh tế: Là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình kinh doanh. Hiệu quả kinh tế được so sánh giữa kết quả đầu ra và chi phí đầu vào.

Qua công thức trên ta thấy, hiệu quả kinh tế chịu ảnh hưởng của hai nhân tố đó là: Kết quả đầu ra và chi phí đầu vào. Hiệu qủa tăng lên khi:

+ Kết quả đầu ra tăng lên và chi phí đầu vào không đổi

+ Hoặc kết quả đầu ra không đổi và chi phí đầu vào giảm xuống

+ Hoặc kết quả đầu ra và chi phí đầu vào đều tăng nhưng tốc độ tăng của kết quả lớn hơn tốc độ tăng của chi phí.

Kết quả đầu ra được xác định trên 3 chỉ tiêu:

+ Chỉ tiêu lợi nhuận ròng: là chỉ tiêu quan trọng nhất, nó là chỉ tiêu chất lượng thể hiện rõ nhất tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh một phần các chỉ tiêu khác như doanh thu và thu nhập. Thông thường khi chỉ tiêu này tăng lên thì các chỉ tiêu khác cũng được thực hiện tương đối tốt.

+ Chỉ tiêu doanh thu: Mang tính chất của chỉ tiêu khối lượng, phản ánh quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi xem xét chỉ tiêu này phải luôn có sự so sánh nó với các chỉ tiêu khác, đặc biệt là chỉ tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp mới có thể nhận xét, đánh giá được chỉ tiêu doanh thu là tích cực hay là hạn chế.

+ Chỉ tiêu thu nhập: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp đạt được.

Từ 3 chỉ tiêu trên ta thấy, doanh thu thực hiện lớn cũng chưa phản ánh đầy đủ hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nó chỉ phản ánh quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, ta phải căn cứ vào lợi nhuận ròng và thu nhập của doanh nghiệp, so sánh chỉ tiêu này với khoản chi phí đầu vào để đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng.

Chỉ tiêu chi phí đầu vào được xác định dựa trên các chỉ tiêu như: giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.

- Hiệu quả xã hội: là những tác động tới thực tiễn đời sống xã hội khi doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tóm lại, đối với các quốc gia đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam thì chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cũng như chỉ tiêu hiệu quả xã hội đều quan trọng và cần thiết. Trong một số trường hợp thì hiệu quả kinh tế tăng trưởng sẽ kéo theo tăng trưởng hiệu quả xã hội. Tuy nhiên, điều này không phải luôn luôn đúng vì nền kinh tế thị trường luôn kèm theo nhiều khuyết tật. Với quan điểm đó, mỗi doanh nghiệp cần phải đạt được hiệu quả kinh tế trên cơ sở hiệu quả xã hội, từ đó có tác động qua lại, kích thích làm tăng hiệu quả kinh tế.

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.

Mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp kinh doanh là thu được lợi nhuận. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện ở số lợi nhuận doanh nghiệp thu được trong kỳ và mức sinh lời của một đồng vốn kinh doanh. Để so sánh, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh giữa các thời kỳ khác nhau của doanh nghiệp ta có thể sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau:

Các chỉ tiêu tổng quát đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.

Vốn kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nên việc khai thác và sử dụng các tiềm lực về vốn sẽ được đánh giá thông qua hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh một cách tổng hợp ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:

- Hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh (số vòng quay của vốn kinh doanh)

Đây là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh huy động vào hoạt động sản xuất kinh doanh sau một kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ trình độ quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả.

- Hàm lượng vốn kinh doanh:

Chỉ tiêu này phản ánh, để thu được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp cần bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Chỉ tiêu này ngược lại với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp càng hiệu quả.

- Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh:

Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế trong kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này thể hiện bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh, cho biết thực trạng kinh doanh lỗ, lãi của doanh nghiệp.

Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh:

Chỉ tiêu này phản ánh 100 đồng vốn kinh doanh tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Chỉ tiêu này cho biết trước khi doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh lỗ, lãi của doanh nghiệp.

Tóm lại, các chỉ tiêu tổng quát trên đã phần nào cho ta thấy tình hình chung hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chưa phản ánh được nét riêng biệt về hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của từng bộ phận vốn. Do đó, để đánh giá đầy đủ hơn hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chúng ta cần xem xét tới các chỉ tiêu cá biệt, đó là toàn bộ các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp.

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

- Hiệu suất sử dụng vốn lưu động ( số vòng quay vốn lưu động)

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Hay nói cách khác, chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích vốn lưu động càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao.

- Thời gian một vòng luân chuyển:

Chỉ tiêu này phản ánh thời gian cần thiết để vốn lưu động thực hiện được một lần luân chuyển. Ngược lại với số vòng quay vốn lưu động, chỉ tiêu này càng nhỏ thể hiện vốn lưu động được luân chuyển nhanh, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao.

- Hàm lượng vốn lưu động:

Chỉ tiêu này cho biết để thu được một đồng doanh thu thuần thì số vốn lưu động mà doanh nghiệp phải bỏ ra là bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp càng cao.

- Tỷ lệ sinh lời của VLĐ:

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả. Do đó, chỉ tiêu này càng cao càng tốt.

Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.

- Hiệu suất sử dụng vốn cố định:

Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn cố định đầu tư vào việc mua sắm và sử dụng tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp càng cao.

Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra được một đồng doanh thu thuần trong kỳ thì doanh nghiệp cần sử dụng bao nhiêu đồng vốn cố định. Chỉ tiêu này ngược lại với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Vì vậy, chỉ tiêu này càng nhỏ càng thể hiện trình độ quản lý và sử dụng tài sản cố định càng cao.

- Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định:

Chỉ tiêu này phản ánh 100 đồng vốn cố định đầu tư ho việc mua sắm và sử dụng tài sản cố định sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp rất tốt.

Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn cố định có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Lợi nhuận sau thuế là kết quả cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều xét đến. Do đó, chỉ tiêu này càng cao bao nhiêu thì chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn cố định càng có hiệu quả bấy nhiêu.

Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là mối quan hệ giữa doanh thu, lợi nhuận và vốn kinh doanh bỏ ra. Làm sao để với một số vốn đầu tư hiện có sẽ nâng cao doanh thu và tạo ra nhiều lợi nhuận nhất ? Do đó, khi xét đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thì một điều không thể bỏ qua đó là xét các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cả các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan.

Những nhân tố khách quan .

Trạng thái phát triển kinh tế.

Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp, tới doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới tốc độ nào đó thì các hoạt động đầu tư được mở rộng, thị trường vốn ổn định, sức mua của thị trường lớn. Điều đó sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển với nhịp đọ phát triển chung của nền kinh tế, do đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.Ngược lại, khi nền kinh tế có những biến động có khả năng gây ra những rủi ro trong kinh doanh hay khi nền kinh tế suy thoái thì thất nghiệp khủng hoảng, phá sản xẩy ra, khi đó doanh nghiệp khó có điều kiện phát sản xuất kinh doanh và do đó ảnh tới hiệu quả sử dụng vốn.

Cơ chế quản lý và các chính sách kinh tế của nhà nước.

Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và khả năng của mình. Nhà nước tạo hành lang pháp lý và môi trương thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản phẩm sản xuất kinh doanh theo ngành nghề mà doanh nghiệp đã lựa chọn và hướng các hoạt động đó theo chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chỉ một thay đổi nhỏ trong cơ chế quản lý và chính sách của nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của doanh nghiệp. Một số chính sách kính tế vĩ mô của nhà nước như :

- Chính sách lãi xuất : Lãi xuất tín dụng là một công cụ để điều hành lượng cung cầu tiền tệ, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi lãi xuất tăng làm chi phí vốn tăng, nếu doanh nghiệp không có cơ cấu vốn hợp lý, kinh doanh không hiệu quả thì hiệu quả sử dụng vốn, nhất la với phần vốn vay giảm sút. ở nước ta cho đến nay vẫn đang thi hành chính sách lãi xuất cao , có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước : Nhà nước ổn định mức lãi cơ bản và đưa ra biên độ giao động đối với lãi xuất tiền gửi và lãi xuất cho vay. Theo đó, nếu lãi xuất tiền gửi cao chứa đựng yếu tố tích cực là giúp cho việc phân phối lại thu nhập trong quảng đại quần chúng nhưng lại là việc khó khăn cho việc huy động vốn đầu tư sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

- Chính sách tỷ giá : Tỷ giá hối đoái vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biệu hiện cung cầu về ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá lại tác động cung cầu ngoại tên, điều tiết sản xuất qua việc thúc đẩy hoặc hạn chế sản xuất hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu. Mặt khác, bản thân tỷ giá hối đoái cũng tác động đến thu nhập của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ cao sẽ kích thích xuất khẩu, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và ngược lại. Do đó, khi tỷ giá thay đổi, có doanh nghiệp thu lãi nhưng cũng có doanh nghiệp thu lỗ.

- Chính sách thuế : Thuế là công cụ quan trọng của nhà nước để điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Chính sách thuế của nhà nước tác động trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì, mức thuế cao hay thấp sẽ làm cho phần lợi nhuận sau thuế nhiều hay it, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Tóm lại, sự thay đổi cơ chế quản lý và chính sách kinh tế của nhà nước đã gây rất nhiều khó khăn cho việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả cao trong doanh nghiệp. Song nếu doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi và kịp thời thích nghi thi sẽ đứng vững trên thị trường, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác và có điều kiện để phát triển và mở rộng kinh doanh phát huy khả năng sáng tạo trong quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của mình.

Sức mua của thị trường .

Nếu sức mua của thị trường đối với sản phẩm của doanh nghiệp lớn thì đó là một thuận lợi lớn đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm sản xuất, từ đó tăng doanh thu, tăng lợi nhuận. Ngược lại, nếu sức mua của thị trường giảm thì sẽ làm cho doanh nghiệp phải bán sản phẩm với giá rẻ để tiêu thụ với hết khối lượng hàng hoá sản xuất ra. Từ đó , làm giảm doanh thu, giảm lợi nhuận hoặc doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ. Khi đó, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp sẽ giảm xuống.

Thị trường tài chính:

Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống tài chính trung gian cũng là nhân tố đáng kể tác động đến hoạt động của doanh nghiệp nói chung và hoạt động tài chính nói riêng. Một thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức tài chính trung gian phát triển đầy đủ, đa dạng sẽ tạo cho doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn với chi phí rẻ, đồng thời doanh nghiệp có thể đa dạng hoá các hình thức đầu tư và có được cơ cấu vốn hợp lý mang lại hiệu quả cao nhất trong sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Mức độ lạm phát

Nếu lạm phát phi mã và siêu lạm phát xâỷ ra thì sẽ ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Khi sẩy ra lạm phát này thì sản xuất bị thu hẹp vì lợi nhuận của các doanh nghiệp bị giảm thấp do giá cả nguyên vật liệu tăng lên liên tục. Nếu doanh nghiệp không điều chỉnh kịp thời giá trị của các loại tài sản thì sẽ làm cho vốn của doanh nghiệp sẽ bị mất dần, theo mức độ trượt giá của tiền tệ. Tức là ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

Rủi ro bất thường trong kinh doanh.

Rủi ro được hiểu là các yếu tố không may sẩy ra mà con người không thể lường trước được.

Rủi ro luôn đi liền với hoạt động kinh doanh, trong kinh doanh thì có nhiều loại rủi ro khác nhau như : Rủi ro tài chính(rủi ro do sử dụng nợ vay), rủi ro trong quá trình sử dụng tài sản, vận chuyển hàng hoá (mất mát, thiếu hụt ,hỏng hóc ) điều này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp mất vố, mất uy tín, mất bạn hàng...trong kinh doanh, từ đó nó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh cùng cạnh tranh và thị trường tiêu thụ không ổn định, sức mua của thị trường có hạn chế thì càng làm gia tăng rủi ro của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên tai gây ra như hoả hoạn, lũ lụt mà doanh nghiệp khó có thể lường trước...

Những nhân tố chủ quan

Cơ cấu vốn là tỷ trọng của từng nguồn vốn trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Tuỳ thuộc từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu của chúng cũng khác nhau. Trong các doanh nghiệp thương mại thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu trong khi đối với các doanh nghiệp thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng chủ yếu. Chính điều này có tác động đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trên hai giác độ khác nhau là :

- ứng với chi phí vốn khác nhau thì chi phí bỏ ra để có được nguồn vốn đó cũng khác nhau .

- Cơ cấu vốn khác nhau thì khi xét đến tính hiệu quả của công tác sử dụng vốn người ta tập trung vào các khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như đối với doanh nghiệp thương mại thì khi xét hiệu quả sử dụng vốn người ta chủ yếu tập trung vào xét hiệu quả sử dụng vốn lưu động.

- Do đó, bố trí cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Bố trí phân phối vốn không phù hợp làm mất cân đối giữa tài sản cố định và tài sản lưu động dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu một loại tài sản nào đó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.

Xác định nhu cầu vốn và sử dụng vốn kinh doanh.

Xác định đúng đắn nhu cầu vốn giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục và tiết kiệm được chi phí sử dụng vốn. Bởi vì, nếu thiếu vốn, doanh nghiệp sẽ không có đủ tiền để thanh toán với người cung ứng đầu vào, không có tiền trả lương cho người lao động...sản xuất bị đình trệ, không sản xuất được hàng hoá của khách hàng đã ký kết với khách hàng dẫn đến mất tín nhiệm trong quan hệ mua ban. Để giải quyết tình trạnh đó, doanh nghiệp phải vay vốn ngoài kế hoạch với lãi xuất cao làm giảm lợi nhuận. Nhưng nếu xác định nhu cầu vốn khá cao sẽ gây nên tình trạng ứ đọng vốn, làm tăng chi phí sử dụng vốn góp phần làm tăng giá thành và giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải xác định được cơ cấu đầu tư hợp lý góp phần thúc đẩy vốn trong các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh vận động nhanh, giảm được chi phí vốn, đồng thời hỗ trợ sản xuất diễn ra liên tục.

Yếu tố chi phí

Chi phí là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn. Chi phí tăng lên làm giá cả hàng hoá dịch vụ tăng lên, dẫn đến hàng tiêu thụ chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Do vậy các doanh nghiệp luôn phấn đấu giảm chi phi, hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Từ đó hàng hoá được tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay sử dụng vốn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của doanh nghiệp.

Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành sản xuất kinh doanh.

Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành sản xuất kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Mỗi ngành sản xuất kinh doanh có những đặc điểm khác nhau về mặt kinh tế kỹ thuật như: tính chất ngành nghề, tính thời vu, chu kỳ kinh doanh...

ảnh hưởng của tính chất ngành nghề tới hiệu quả sử dụng vốn thể hiện ở quy mô, cơ cấu kinh doanh. Quy mô, cơ cấu vốn khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn, tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả...do đó ảnh hưởng tới doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.

ảnh hưởng tính thời vụ và chu kỳ sản xuất thể hiện ở nhu cầu vốn là doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp hoạt động trong ngành sản xuất có tính thời vụ thì nhu cầu vốn lưu động giữa các quỹ trong năm thường có sự biến động lớn, doanh thu bán hàng thường không được đều, tình hình thanh toán chi trả cũng gặp khó khăn, ảnh hưởng tới kỳ thu tiền bình quân, tới hệ số quay vòng lớn...Do đó, ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn thì nhu cầu vốn giữa các thời kỳ trong năm thường không biến động lớn, doanh nghiệp thường xuyên thu được tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễ dàng cân đối giữa thu chi bằng tiền, và đảm bảo nguồn vốn cho kinh doanh, vốn được quay vòng nhiều lần trong năm. Ngược lại, những doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài, phải ứng ra một lượng vốn lưu động tương đối lớn, vốn quay vòng it...

Lựa chọn phương án đầu tư.

Với chính sách mở của nền kinh tế, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội để có được các dự án đầu tư hơn. Vấn đề là doanh nghiệp phải xem xét nên lựa chọn phương án nào, bởi vì quyết định đầu tư của doanh nghiệp có tính chiến lược, nó quyết định tương lai và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc ra quyết định đầu tư cần dựa trên cơ sở xem xét các chính sách kinh tế và định hướng của nhà nước, thị trường và sự cạnh tranh, lợi tức vay vốn và thuế trong kinh doanh, sự tiến bộ của khoa học công nghệ, độ vững chắc và tin cậy của đầu tư, khẳ năng tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh quá trình lựa chọn phương án phù hợp, hiệu quả của vốn đầu tư phụ thuộc nhiều vào việc dự toán đúng đắn về vốn đầu tư. Bởi vì, nếu đầu tư vốn quá mức hoặch đầu tư không đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí vốn rất lớn cho doanh nghiệp.Nếu đầu tư quá it sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ khả năng đáp ứng đủ các đơn đặt hàng, từ đó có thể mất thị trương do không đủ sản phẩm bán. Hơn nữa, nếu doanh nghiệp không có quyết định đầu tư đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất trong điều kiện cạnh tranh, doanh nghiệp có thể thua lỗ phá sản...

Năng lực quản lý của doanh nghiệp

Năng lực quản lý của doanh nghiệp thể hiện ở hai mặt : năng lực quản lý tài chính và năng lực quản lý sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu nhà quản lý doanh nghiệp không có những phương án sản xuất hữu hiệu, không bố trí hợp lý các khâu, các trình độ lao động, các giai đoạn sản xuất sẽ gây lãng phí nguồn lực, vốn, vật liệu... Điều đó có nghĩa là năng lực quản lý của doanh nghiệp yếu kém và sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Trong quản lý tài chính, nhà quản trị tài chính phải xác định được nhu cầu vốn kinh doanh, phải bố trí cơ cấu hợp lý, không để vốn bị ứ đọng, dư thừa, phải huy động đủ vốn cho sản xuất. Nếu cơ cấu vốn không hợp lý, vốn đầu tư lớn các tài sản không sử dụng hoặc ít sử dụng, vốn trong quá trình thanh toán bị chiếm dụng sẽ làm tăng chi phí sản xuất, làm giảm khả năng luân chuyển vốn...Điều đó có nghĩa là năng lực quản lý hành chính yếu kém và tất yếu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn.

Nói tóm lại, nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thì có nhiều. Tuỳ theo từng loại hình, lĩnh vực kinh doanh cũng như mội trường hoạt động của từng doanh nghiệp mà mức độ và xu hướng tác động của chúng có thể khác nhau. Do đó, việc nhận thức đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp có những biện pháp kip thời, hữu hiệu để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường.

0