Phát triển công nghiệp nông thôn khâu mẫu chốt trong việc phát triển nhanh và bền vững nông nghiệp nông thôn
Có thể khẳng định rằng trong một "hùm " năm nghi quyết của hội nghị lần thứ năm của ban chấp hành trung ương Đảng(khoá IX) Nghi quyết "Về đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn "có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhanh ...
Có thể khẳng định rằng trong một "hùm " năm nghi quyết của hội nghị lần thứ năm của ban chấp hành trung ương Đảng(khoá IX) Nghi quyết "Về đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn "có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhanh và bền vững của đất nước thời kỳ 2001-2010. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở khu vực nông thôn hiện nay vừa là khâu mẫu chốt,vừa là một vấn đề đang bức xúc nhất. Do đó, việc triển khai thực hiện thắng lợi khâu này cũng như toàn bộ nghị quyết ở các ngành, các cấp sẽ được đất nước ta bước vào một giai đoạn mới.
Trước hết,cần khẳng định rằng.Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 được đại hội đảng lần thứ VII thông qua đã đề cập đến nhiều chủ trương về phát triển kinh tế nông thôn,trong đó có 3 nội dung cơ bản nhất là :
-" Nông -lâm - ngư nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng hoá,gắn với công nghiệp chế biến...Hình thành một số vùng chuyên canh cây công nghiệp chế biến...Kết hợp nông nghiệp với ngư nghiệp, gắn với công nghiệp khai thác và chế biến...".
- "Coi trọng công nghiệp sau thu hoạch.Phát triển rộng khắp công nghiệp chế biến nông ,lâm ,thuỷ sản,kết hợp nhiều hình thức công nghệ,hợp tác liên doanh với nước ngoài để hiện đại hoá công nghệ...".
- Nhất là, kế hoạch đã nhấn một cách hết sức rõ ràng chủ trương:" Phát triển mạnh các ngành nghề đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.."với mục tiêu "giải quyết việc làm và thay đổi cơ cấu lao động,giảm bớt số lao động nông nghiệp.Hình thành các điểm công nghiệp và văn hoá ở nông thôn ".
Tuy nhiên sau 10 năm thực hiện chiến lược này,mặc dù nên kinh tế nói chung có những bước tiến rất xa,nhưng việc thực hiện mục tiêu nói trên lại hết sức khiêm tốn.Nhận định này dựa trên ba căn cứ sau đây:
Thứ nhất: về tổng thể nền kinh tế,nếu so với năm 1990,tổng sản phẩm trong nước tới năm 2000 đã tăng 2,07 lần, hay đạt nhịp độ bình quân là 7,56% năm: trong đó điều rất đáng mừng là,do đạt tỷ lệ tăng trưởng rất cao,tỷ trọng của hai khu vực công nghiệp và dịch vụ trong cùng kỳ tăng từ 61,26% lên75,31% khu vực kinh tế nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trước đây chiếm khoảng 38,74% nay giảm xuống chỉ còn 24,29%. Song, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa được phát triển mạnh ở khu vực nông thôn, mà mới chỉ tập trung phát triển chủ yếu ở khu vực thành thị.
Thứ hai: nếu so sánh các kết quả điều hai cuộc điều tra ở nông thôn và nông nghiệp do Tổng cục thống kê tiến hành năm 1994 và năm 2000 có thể thấy,trong khi tỷ trọng của các hộ nông,lâm,ngư nghiệp và thuỷ sản giảm từ 81,65% xuống 79,84% và tỷ trọng của các hộ công nghiệp và xây dựng tăng từ1,61% lên 4,23%,thì tỷ trọng của các ngành dịch vụ lại giảm từ 16,74% xuống chỉ còn 14,32%,Tính theo số tuyết đối,trong khi hộ công nghiệp(kê cả hộ xây dựng) trong cùng kỳ tăng được 576 nghìn hộ,số hộ nông lâm,thuỷ sản tăng tới720 nghìn hộ,thì số hộ dịch vụ chẳng những không tăng mà giảm hơn 8000 hộ.Điều đó cho thấy ,do khả năng tạo ra việc làm của hai khu vực công nghiệp và dịch vụ còn hạn chế nên đa số những hộ nông dân trong những sáu năm gần đây vẫn phải tìm kiếm việc làm nông nghiệp ,lâm nghiệp và thủy sản.
Về thu nhập,kết quả hai cuộc tổng điều tra trên cho thấy tình hình đáng buồn hơn nhiều.Cụ thể là,trong cùng kỳ,thu nhập từ sản xuất nông lâm ,thuỷ sản tăng từ 57,30% lên 69,04%,tức là thu nhập từ sản xuất nông,lâm nghiệp và thuỷ sản đã giảm từ 42,70% xuống còn 40,96%.thu nhập từ hai khu vực công nghiệp và dịch vụ còn hết sức khiêm tốn : tăng từ 4,70% lên 8,28% (công nghiệp) ,nhưng thu nhập từ dịch vụ lại giảm từ 11,90% xuống 10,87%.Như vậy ,trong khi công nghiệp và dịch vụ làm cho thu nhập của cư dân khu vực đô thị tăng rất nhanh,thì nguồn thu nhập chủ yếu của cư dân nông thôn vẫn chủ yếu là từ nông nghiệp ,lâm nghiệp và thuỷ sản,hay nói công nghiệp và dịch vụ hiện vẫn còn chiếm 3/4 dân số này của cả nước ta .
Do tình hình việc làm và thu nhập như vậy,khoảng cách giàu nghèo giữa hai khu vực nông thôn và thành thị ngày càng rộng. Theo kết quả điều tra về mức sống dân cư của tổng cục thống kê,thì khoảng cách này năm1996 là2,71 lần,năm1999 tăng lên3,70 lần,năm 2001 tăng lên 4,45 lần.Rõ ràng đây là khoảng cách khá lớn,bởi trình độ phát triển của nước ta còn qua thấp .
Thứ ba:do thu nhập của khu vực nông thôn còn quá thấp,lại tăng rất chậm,dẫn đến một hậu quả tất yếu rất đáng lo ngại là làm sức mua của thị trường này rất yếu và nền kinh tế thiếu thị trường để phát triển .
Căn cứ vào kết quả điều tra nói trên,có thể tính được rằng"rổ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội" ,thị phần của khu vực nông thôn đã "co lại " từ 59,32% (năm1996) xuống chỉ còn 46,06%(năm2001).Đây chích là nguyên nhân cốt lõi khiến cho nhịp độ tăng trưởng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội của cả nứơc trong ba năm liên tục đều dưới 10% ,rất thấp so với những năm trước đó.Điều đó có nghĩa nếu tất cả những điều nói trên không được khắc phục,thì chúng ta rất khó có thể,nếu như không nói là không thể thực hiện được mục tiêu tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi trong vòng 10 năm,càng không thể nói đến sự phát triển bền vững.Từ đó có thể khẳng định rằng,đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở khu vực nông thôn(công nghiệp phát triển nhanh sẽ kéo theo dịch vụ phát triển nhanh) là một ván đề không mới nhưng do việc thực hiên còn rất xa mong muốn nên đã và đang trở thành một vấn đề bức xúc,là khâu mẫu chốt trong việc phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững.
Ngày 4-6-2002,Thủ Tướng Chính Phủ ra Quyết định số68/2002/QĐ/TTg về " Chương trình hành động nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001 –2010 ". Nhìn một cách tổng quát trương trình này gồm một số nội dung chủ yếu sau đây :
Một là: điều chỉnh các quy hoạch trong đó trọng tâm là các vùng sản xuất tập trung những loại nông,lâm,thuy sản,hàng hoá chủ yếu,tức là thực hiện hoá chủ trương cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hình thành một nên nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều sinh thái của từng vùng .Xoay quanh nội dung cốt lõi là việc đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào các ngành trồng trọt ,chăn nuôi ,lâm sản ,thuỷ sản,giống cây trồng vật nuôi sau thu hoạch,nhất là bảo quản chế biến nông lâm thuỷ sản ...phát triển thuỷ sản và tài nguyên nước nhằm nâng cao năng suất lao động,nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Hai là:phát triển điện và năng lượng tái tạo ở nông thôn,phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu tại chỗ hoặc cần nhiều cho lao động (sản xuất vật liêu xây dựng,khai thác mỏ,chế biến nông ,lâm ,thuỷ sản,dệt may,da giầy,cơ khí lắp giáp và sửa chữa...);phát triển ngành nghề nông thôn;bố chí ,xắp xếp nâng cao năng lực công nghiệp cơ khí hoá chất phục vụ cho nông nghiệp...Nghĩa là,cùng với phát triển hàng hóa với quy mô lớn,công nghiệp sẽ được đồng thời phát triển mạnh ở khu vực này,tạo thế đi lên vững chắc bằng cả "hai chân " ;công nghiệp và nông nghiệp chứ không chỉ đơn thuần là nông nghiệp như hiện nay.
Ba là: để thực hiện được các phương hướng phát triển trên. Chương trình chủ trương phát triển một loạt các yếu tố khác với vai trò tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế như: phát triển giao thông –dịch vụ ,hệ thống viễn thông cấp xã và hệ thống thông tin:xây dựng hệ thống cho vay và trung tâm thương mại dịch vụ ở khu vực nông thôn:tức là tạo ra thế "chân kiềng",nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ để kinh tế nông thôn phát triển một cách vững chắc.
Bốn là: dựa trên những tiền đề kinh tế đó bộ mặt nông thôn sẽ được đổi mới nhờ chương trình phát triển các thị tứ,thị trấn và khu dân cư nông thôn; đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết ,xây dựng nết sống văn hoá,xây dựng trung tâm văn hoá làng xã,y tế cộng đồng;đào tạo nguồn nhân lực và phổ cập giáo dục ...
Với những mục tiêu nêu trên nội dung mà chương trình hướng tới không có gì khác là tạo thêm nhiều việc làm ,tăng thêm thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo,tạo bộ mặt nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông thôn .
Để thực hiện chương trình đó bám sát những nội dung trên chương trình đã nêu ra hàng loạt các mục giải pháp,từ vấn đề đồn điền ,đổi thửa,sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh,liên kết sản xuất,kinh doanh;nghiên cứu sửa đổi Luật đất đai,luật thuế,sử dụng đất nông nghiệp,thuế thu nhập cho các doanh nghiệp phục vụ khu vực nông nghiệp và nông thôn;đến yêu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho khu vực nông nghiệp và nông thôn,nhất là thuỷ lợi,giao thông và hệ thống điện;ưu tiên nguồn vốn đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ và phát triển thị trường nông thôn;đổi mới cơ chế quản lý khoa học,quản lý khuyến nông;có chính sách đào tạo nguồn nhân lực và khuyến khích cán bộ phục vụ nông nghiệp và nông thôn;khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh nông sản,...
Tuy rất đa dạng và chắc chắn sẽ có tác động rất tích cực tới việc phát triển kinh tế ở nông thôn,nhưng có thể khẳng định rằng các giải pháp đưa ra trong chương trình vẫn chưa tạo ra một tiền đề quan trọng nhất để công nghiệp có thể phát triển mạnh ở khu vực này,bởi vẫn còn thiếu một hệ thống các giải pháp nhằm phát triển các khu các cụm công nghiệp nhỏ gắn liền với làng xã nông thôn .
Rõ ràng,sự chật chội của các làng xã,nhất là các làng xã cổ,ở khu vực nông thôn nước ta không cho phép phát triển mạnh công nghiệp.Chẳng hạn,"xã công nghiệp "Dương Liễu Hoài Đức Hà Tây với 2.550 hộ,11.500 người,trong đó có 90% số hộ làm ngành nghề,có giá trị sản lượng nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 2001 là 298 tỷ đồng,nhưng giếng nước khoan sâu tới 70 mét vẫn không sử dụng được và 80% dân số ở đây mắc bệnh đường ruột...cũng cho thấy rất rõ điều này.Hoặc ở một khía cạnh khác,thông tin từ xã Đồng Quan Từ Sơn Bắc Ninh cho thấy,khi 12 hec ta đất khu công nghiệp sản xuất đồ mỹ nghệ của xã vừa được quy hoạch,ngay lập tức có hàng trăm hộ đến đăng ký thuê đất và nhiều nhu cầu thuê đất của dân vẫn còn rất nhiều .
Thực tế đó đã khẳng định,để có thể phát triển mạnh công nghiệp ở khu vực nông thôn,không thể không chú trọng thoả đáng đến việc quy hoạch phát triển công nghiệp ở khu vực này.Rõ ràng,chúng ta không thể kỳ vọng vào sự phát triển mạnh ở đây, nếu các ngành các địa phương không tạo ra chỗ cắm rùi cho nó.
Tiếp theo,cùng với việc phát triển quy hoạch ở khu vực nông thôn,cần nghiên cứu ban hành một hệ thống các chính sách ưu đãi để thu hút mọi thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn.Đây cũng là điều được khẳng định rất rõ ràng trong"chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010" của đảng .
Ngoài ra,thực tiễn thi hành luật doanh nghiệp trong hơn ba năm qua cho thấy,tuy đã tạo ra một làn sóng mới để phát triển kinh tế, nhưng bên cạnh đó cũng đặc ra vấn đề cần đặc biệt quan tâm dưới góc độ triển khai nghị quyết này.Đó là,trong tổng số trên 41.000 được thành lập với tổng số vốn huy động được khoảng 60 nghìn tỷ đồng cho đến nay thì có khoảng 60% tập trung ở hai thành phố lớn nhất là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh .Còn nếu kể thêm một vài địa phương khác như Hải phòng,Đồng nai ,Bà rịa - Vũng tàu,Bình Dương ....,thì tỷ trọng này lên khoảng 70%; tức là,về cơ bản nông thôn vẫn là "vùng trắng " , nằm ngoài làn sóng phát triển này.Mặt khác,kết quả điều tra về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho thấy,có tới 90% doanh nghiệp phải đi thuê đất trong đó có những trường hợp phải thuê đất của cá nhân hay thuê đất của doanh nghiệp nhà nước với giá thị trường,măc dù quy trình xin đất sử dụng đã được phê duyệt.
Cuối cùng ,để công nghiệp và dịch vụ có thể phát triển mạnh ở nông thôn,cần nghiên cứu để hình thành một hệ thống thông tin về vấn đề này để phục vụ cho cơ quan nhà nước các cấp.Bởi đến nay,mọi nghiên cứu về vấn đề này đều phải "đi đường vòng ",dưới hình thức rút ra kết luận từ các số liệu liên quan .
Nói đến công nghiệp hoá ,hiên đại hoá nông thôn,không thể không nói đến phát triển nông nghiệp trong lòng nông thôn .Bên cạch việc chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may măc ,da giầy ...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn như chiến lược của Đảng đã khẳng định ,vấn đề cơ bản là phải tạo đủ điều kiện để công nghiệp có thể phát triển nhanh ở khu vực còn rất nhiều khó khăn này .Bởi chỉ có như vậy,mới đạt được mục tiêu tạo nhiều việc làm ,tăng thêm thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn . Và cũng chỉ có như vậy ,nền kinh tế mới đủ động lực để phát triển và bộ mặt nông thôn nước ta cũng mới có thể có một diện mạo mới. Đó cũng là việc thực hiện đường lối công - nông - trí thức liên minh của Đảng mà các ngành các cấp không thể đứng ngoài cuộc.