Hệ thống kinh tế nông nghiệp việt nam
Khái niệm và đặc trưng của hệ thống kinh tế nông nghiệp việt nam Khái niệm Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất, là một bộ phận cấu thaành của nền kinh tế quốc dân.Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, con ...
Khái niệm và đặc trưng của hệ thống kinh tế nông nghiệp việt nam
Khái niệm
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất, là một bộ phận cấu thaành của nền kinh tế quốc dân.Trong quá trình sản xuất nông nghiệp, con người không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất cho nhu cầu xã hội mà còn thực hiện sản xuất và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của chính con người, những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này tạo thành cơ sở kinh tế cho toàn bộ các quan hệ tư tưởng, tinh thần trong nông nghiệp nông thôn. Nói cách khác, quan hệ sản xuất là các quan hệ kinh tế tạo nên cơ sở kinh tế cho sự phát triển nông nghiệp trong mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và với các quan hệ xã hội khác.
Trong kinh tế thị trường, các quan hệ sản xuất của nông nghiệp không thuần nhất và rất đa dạng do quan hệ sở hữu là đa dạng. Tất cả mọi loại hình sở hữu, mọi kiểu sở hữu đa dạng trong nông nghiệp làm cơ sở cho các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo pháp luật đều được coi là một bộ phận cấu thành của nền nông nghiệp vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong quá trình phát triển các loại hình sở hữu vừa có vai trò độc lập tương đối, vừa có sự tác động qua lại với nhau, nương tựa vào nhau và liên kết với nhau, tạo thành nền tảng kinh tế - một hệ thống kinh tế thống nhất biện chứng của nông nghiệp. Tính thống nhất biện chứng của toàn bộ hệ thống kinh tế nông nghiệp phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, là điều kiện cho sự phát triển với tốc độ cao của nông nghiệp trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Như vậy, hệ thống kinh tế nông nghiệp là tổng thể quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, biểu hiện bằng những hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, những hình thức tiêu dùng các sản phẩm sản xuất ra với những hình thức tổ chức sản xuất, trao đổi, phân phối và cơ chế quản lý tương ứng của Nhà nước đối với toàn bộ nền nông nghiệp. Nói cách khác, hệ thống kinh tế nông nghiệp là tổng thể các quan hệ kinh tế trong nông nghiệp.
Trong nhiều thập kỷ trước thời kỳ đổi mới, quan điểm cơ bản về việc hình thành và phát triển hệ thống kinh tế nông nghiệp ở nước ta là quá ddề cao vai trò của sở hữu Nhà nước, dẫn tới thiết lập hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh trong mọi lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, với sự tài trợ rất lớn của ngân sách Nhà nước. Khu vực sản xuất thuộc các thành phần kinh tế không phải sở hữu Nhà nước kể cả sở hữu hợp tác xã cũng chỉ được coi là hình thức sở hữu quá độ. Các hình thức sở hữu tư nhân chưa được thừa nhận sự tồn tại và phát triển về mặt pháp lý. Cùng với việc áp dụng cơ chế quản lý kế hoạch hoá, tập trung bao cấp, sự vận động phát triển của hệ thống kinh tế nông nghiệp nước ta theo mô hình nêu trên tỏ ra kém hiệu quả; các tiềm năng đất đai và lao động không được khai thác triệt để; vật tư, tiền vốn bị sử dụng lãng phí và thất thoát nhiều; đời sống nông dân và bộ mặt của nông thôn chậm được cải thiện.
Từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta phải chuyển hẳn từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự chuyển đổi có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn nói trên của Đảng ta đòi hỏi hệ thống kinh tế nông nghiệp phải phát triển theo định hướng mới với đặc trưng mới phù hợp với các quy luật kinh tế thị trường và xu thế chung của thời đại.
Đặc trưng của hệ thống kinh tế nông nghiệp Việt Nam.
Đặc trưng cơ bản của hệ thống kinh tế nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta nhằm xây dựng ở Việt nam là một hệ thống kinh tế mang tính chất hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực sản xuất và dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ hiệp tác, liên kết và cạnh tranh phù hợp với pháp luật Nhà nước và được pháp luật bảo vệ, trong đó sở hữu Nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước là lực lượng định hướng xã hội chủ nghĩa chủ yếu của hệ thống. Dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, hệ thống kinh tế nông nghiệp nhiều thành phần phát triển trong sự chi phối ngày càng hoàn hảo cuả cơ chế thị trường. Thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết định trong việc phân phối các tài nguyên quốc gia vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm thúc đẩy sự hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Từ đặc trưng tổng quát nêu trên của hệ thống kinh tế nông nghiệp Việt nam mà ta nhằm hướng tới, có thể xác định những đặc trưng cụ thể sau:
Là hệ thống kinh tế nông nghiệp mang tính hỗn hợp với nhiều hình thức sở hữu rất đa dạng: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu cá thể tư nhân và sở hữu hỗn hợp.
- Sở hữu Nhà nước : Đây là loại hình sở hữu tạo nòng cốt cho toàn bộ hệ thống kinh tế nông nghiệp, có vai trò dẫn dắt và định hướng sự phát triển của toàn bộ ngành nông nghiệp. Vai trò nòng cốt và chỉ đạo của kinh tế Nhà nước không phải thể hiện ở số lượng hay tỷ trọng cao của các doanh nghiệp Nhà nước, mà ở hiệu quả hoạt động, vai trò đầu tầu lôi kéo, liên kết các bộ phận kinh tế khác phát triển đạt hiệu quả cao.
Trong nông nghiệp nước ta hiện nay, nếu không kể ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện thì sở hữu Nhà nước biểu hiện dưới hai hình thức chủ yếu: Một là, các doanh nghiệp nông nghiệp 100% vốn Nhà nước, trong đó kể cả các doanh nghiệp quốc phòng - kinh tế. Hiện nay số doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước hiện có mặt ở tất cả các lĩnh vực sản xuất, chế biến và dịch vụ, một số thuộc Trung ương và số còn lại thuộc các địa phương quản lý. Trong quá trình sắp xếp lại và đổi mới, số lượng doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước sẽ giảm xuống, số còn lại chủ yếu nằm ở các vùng trọng yếu, vùng sâu, vùng xa để giữ vai trò là hạt nhân phát triển của vùng trong quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế vùng từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá. Hai là, cổ phần Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hoá. Tuỳ theo tính chất doanh nghiệp trong từng ngành hàng nông sản, thực phẩm, chủ yếu là những ngành sản xuất xuất khẩu, cổ phần Nhà nước sẽ có tỷ lệ cao, thấp khác nhau.
- Sở hữu tập thể: Là bộ phận hợp thành chế độ sở hữu, có quan hệ mật thiết với các loại hình sở hữu khác. Kinh tế tập thể tồn tại và phát triển lâu dài trong nông nghiệp là tất yếu khách quan ở mọi nước nhằm hỗ trợ, giúp đỡ cho kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển và hợp tác, liên kết với kinh tế Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong nông nghiệp, hình thức biểu hiện của sở hữu tập thể rất đa dạng. Về giá trị, vốn thuộc sở hữu tập thể của hợp tác xã hay của các hình thức hợp tác gồm vốn cổ phần sáng lập, cổ phần vốn góp, phần lợi nhuận kinh doanh trích lập quỹ phát triển sản xuất (nếu có). Về hiện vật, tài sản thuộc sở hữu tập thể cũng đa dạng gồm công trình tưới tiêu của tập thể, các trang thiết bị và trụ sở làm việc, các máy móc hay tài sản cố định mua sắm...
- Sở hữu cá thể tư nhân: Là loại hình sở hữu không thể thiếu được trong hệ thống kinh tế nông nghiệp nhiều thành phần. Trong nền nông nghiệp nước ta, sở hữu cá thể tư nhân đã tồn tại và phát triển ở những mức độ khác nhau qua các thời kỳ lịch sử. Dưới thời phong kiến, sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu của địa chủ, phú nông và một bộ phận sở hữu nhỏ và rất nhỏ của nông dân. Sau cải cách ruộng đất, sở hữu lớn của địa chủ bị xoá bỏ và hình thành phổ biến sở hữu của hộ nông dân dưới hình thức kinh tế tiểu nông. Trong thời kỳ tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung, sở hữu cá thể tư nhân bị thu hẹp tối đa. Sở hữu cá thể tư nhân trong nông nghiệp còn lại không đáng kể, tồn tại dưới hình thức chủ yếu là kinh tế phụ 5% của gia đình xã viên các hợp tác xã nông nghiệp và bộ phận nhỏ gia đình nông dân cá thể chưa vào hợp tác xã.
Trong thời kỳ đổi mới, sở hữu cá thể tư nhân trong nông nghiệp được khuyến khích phát triển. Hiện nay cả nước có 9,3 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó chỉ có 5% do doanh nghiệp Nhà nước đảm nhận kinh doanh, số còn lại do dân làm dưới hình thức kinh tế hộ và kinh tế trang trại. Ngoài đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, được Nhà nước giao sử dụng lâu dài, các hộ và các trang trại tự mua sắm máy móc, thiết bị, các công cụ cần thiết phục vụ sản xuất kinh doanh. Các tư liệu sản xuất nói trên thuộc sở hữu của bản thân kinh tế hộ và kinh tế trang trại.
- Sở hữu liên kết: là loại hình sở hữu phổ biến và phát triển rất đa dạng cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá nông nghiệp, dựa trên trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Hình thức biểu hiện của sở hữu liên kết là rất phong phú, có thể dưới các dạng chủ yếu sau đây :
+ Liên kết đồng sở hữu, ví dụ, các hộ kinh tế tự chủ cùng đấu thầu diện tích mặt nước, diện tích đất trống đồi trọc và cùng góp vốn kinh doanh.
+ Liên kết dựa trên nền tảng sở hữu Nhà nước, ví dụ Nhà nước bỏ vốn đầu tư cải tạo, khai hoang phục hoá, xây dựng cơ sở hạ tầng rồi khoán hoặc cho hộ gia đình, trang trại thuê để kinh doanh. Hình thức này thường phát triển ở những vùng chuyên canh lớn còn khả năng đất đai để mở rộng quy mô sản xuất.
+ Sở hữu của công ty cổ phần nông nghiệp
+ Sở hữu của công ty theo mô hình công ty mẹ, công ty con. Ví dụ nông trường Sông Hậu (huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thôư) có 10 phân xưởng chế biến gạo trên địa bàn nông trường và ngoài nông trường; 6 phân xưởng đồ hộp, sấy, chế biến các loại nông sản trên địa bàn Cần Thơ, Đồng Nai, Đắk Lắk, một phân xưởng đông lạnh chế biến thuỷ súc sản và một phân xưởng chế biến gỗ. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả và mở rộng hoạt động chế biến, kinh doanh xuất, nhập khẩu, nông trường có thể tổ chức một số phân xưởng dưới dạng công ty cổ phần (cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp). Khi đó sở hữu liên kết của nông trường sẽ theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
+ Sở hữu liên kết theo mô hình tập đoàn kinh tế. Hiện nay, nông trường Sông Hậu đã tổ chức được sự liên kết sở hữu với nhiều chủ thể kinh doanh và các đơn vị khác trong vùng thuộc Cần Thơ và các tỉnh khác. Ví dụ như ngoài các hộ công nhân nhận khoán trong nông trường, các hộ nông dân ngoài nông trường cũng nhận hợp đồng sản xuất nông sản nguyên liệu cho các phân xưởng chế biến được bố trí trên các địa bàn khác nhau; nông trường Sông Hậu liên kết với Viện lúa Đồng bằng sông Cửu Long, Viện cây ăn quả miền Nam, Trường đại học Cần Thơ... để thực hiện nghiên cứu, khảo nghiệm, chọn lọc các giống tốt cho sản xuất hoặc trợ giúo giải quyết những vấn đề kinh tế - kỹ thuật khác. Trong thời gian tới, nếu tiến hành cổ phần hoá một số phân xưởng để xây dựng mô hình công ty mẹ - công ty con, sẽ thu hút thêm nhiều loại cổ đông mới, kể cả cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài. Khi đó sở hữu liên kết sẽ được hình thành theo mô hình tập đoàn kinh tế, kinh doanh tổng hợp, đa dạng ở cả thị trường nội địa và các hoạt động xuất khẩu với thị trường quốc tế.
Tương ứng với các hình thức sở hữu nói trên sẽ hình thành và phát triển nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng và năng động.
Các doanh nghiệp nông nghiệp 100% vốn Nhà nước; các công ty cổ phần có tỷ lệ cổ phần Nhà nước cao thấp khác nhau; các hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng của nông dân như tổ đoàn kết sản xuất, câu lạc bộ sản xuất;các hội nghề như hội nuôi ong, hội nuôi cá; các doanh nghiệp tư nhân gồm kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Các hình thức liên kết, liên doanh tự nguyện giữa các tổ chức kinh tế sẽ được thực hiện tuỳ thuộc trình độ đạt được của lực lượng sản xuất nông nghiệp ở từng thời kỳ và từng địa phương nhất định. Trong các hình thức tổ chức sản xuất phát triển đa dạng đó thì các nông hộ và các trang trại nông, lâm, thuỷ sản được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ, đơn vị cơ sở của hệ thống kinh tế nông nghiệp nhiều thành phần.
Tất cả các chủ thể kinh tế trong hệ thống đều tự do kinh doanh theo pháp luật, có quyền bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trước pháp luật.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước gồm các bộ luật chủ yếu như Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty, Luật hợp tác xã v.v... sẽ dần hoàn thiện theo hướng không phân biệt đối xử với các chủ thể kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau hoạt động trong nông nghiệp. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt trình độ xã hội hoá ngày càng cao.
Về chế độ quản lý hệ thống kinh tế nông nghiệp.
Việc điều hành các hoạt động kinh tế nông nghiệp sẽ hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính, đảm bảo vận hành nền nông nghiệp chủ yếu theo nguyên tắc thị trường, tức là vận hành chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung, cầu, quy luật cạnh tranh, v.v... kết hợp với các kế hoạch định hướng và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Mọi yếu tố đầu vào của sản xuất và đầu ra của sản phẩm nông nghiệp đều phải đi vào thị trường. Như vậy trong tương lai, nông nghiệp và nông thôn nước ta sẽ dần hình thành ngày càng đầy đủ một hệ thống thị trường thông suốt và thống nhất, không chỉ có thị trường hàng hoá và dịch vụ mà còn có cả thị trường vốn, kỹ thuật, lao động, chứng khoán (mức phát triển cao của thị trường vốn trong nông thôn),... Với sự tự do hoá giá cả thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, sẽ làm cho thị trường phát huy đầy đủ vai trò thúc đẩy toàn bộ nền nông nghiệp nước ta phát triển với tốc độ nhanh và có hiệu quả cao.
Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống kinh tế nông nghiệp việt nam.
Thời kỳ trước cách mạng 1945
Trong thời kỳ phong kiến, từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIX các hình thức kinh tế chủ yếu trong nông nghiệp là các điền trang, thái ấp, đồn điền với quy mô tương đối lớn. Đố là những trang ấp của giai cấp quý tộc, các vương hầu, các công thần thời Lý - Trần - Lê - Nguyễn được vua ban. Trên đó hầu hết là sản xuất lúa và lương thức theo phương thức nô dịch, hoặc lĩnh canh. Từ giữa thế kỷ XIX sau khi bị thực dân Pháp xâm chiếm, nước ta trở thành một nước phong kiến nửa thuộc địa. Trong nông nghiệp các hình thức điền trang, thái ấp tan rã dần và hình thành các hình thức kinh tế mới sau :
- Kinh tế địa chủ: hộ địa chủ chiếm hữu nhiều ruộng đất, phát canh thu tô với tỷ lệ rẽ đôi hoặc rẽ ba.
- Kinh tế phú nông: có xu hướng sản xuất hàng hoá, một phần sản phẩm làm ra đem bán trên thị trường. Trong sản xuất nông nghiệp có thuê mướn lao động.
- Kinh tế trung nông: Những hộ có ruộng, có lao động, tự cày cấy và đủ ăn, sản phẩm dư dôi rất nhỏ bé.
- Kinh tế bần nông: Những nông hộ nghèo, thiếu ruộng làm không đủ ăn.
Cả phú nông, trung nông và bần nông đều ít nhiều lĩnh canh thuê đất của địa chủ. Ngoài ra còn có cố nông, những người không có ruộng đi làm thuê để kiếm sống.
- Kinh tế đồn điền của các địa chủ - tư sản Pháp ở Việt Nam. Đặc trưng chủ yếu của loại hình kinh tế này là kinh doanh kiểu tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn duy trì phương thức sử dụng lao động theo kiểu nông nô và quản lý gần giống với trại lính. Theo số liệu thống kê của Pháp tính đến ngày 31 tháng 12 năm 1943, người Pháp đã chiếm trên 1 triệu ha đất trồng và tổ chức thành 3.928 đồn điền trong đó một số là đồn điền liên doanh, một số là đồn điền của công ty tư bản.
Thời kỳ 1945 - 1954
Sau Cách mạng Tháng Tám chưa được bao lâu, dân tộc ta phải tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện đã hình thế cài răng lược giữa các vùng tạm chiếm và các vùng tự do hoặc mới giải phóng. ở các vùng tạm chiếm các loại hình kinh tế nông nghiệp trước cách mạng vẫn tồn tại cho đến khi được giải phóng.
Trong các vùng tự do và giải phóng, cùng với việc thực hiện các chính sách của Chính phủ kháng chiến về giảm tô, giảm tức, chia đất công và đất tịch thu được của địa chủ người Pháp cho bần cố nông, đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm v.v... các hình thức kinh tế trong nông nghiệp có sự chuyển dịch về cơ cấu: Kinh tế địa chủ bị suy yếu; kinh tế phú nông chững lại; kinh tế trung nông lớn lên cả về số hộ và tiềm lực kinh tế của mỗi hộ; đời sống của bần nông và cố nông được cải thiện.
Thời kỳ 1955 - 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, theo Hiệp định Giơnevơ nước ta tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Năm 1975 miền Nam mới hoàn toàn được giải phóng, cả nước mới được thống nhất. Trong suốt 20 năm đó trên hai miền kinh tế phát triển theo hai hướng khác nhau.
ở miền Bắc
Trong thời kỳ này ở miền Bắc có nhiều biến đổi mạnh, sâu sắc và được chia là 3 giai đoạn :
- Giai đoạn 1955-1957: Hoàn thành kế hoạch 3 năm, khôi phục kinh tế và thực hiện cải cách ruộng đất, hoàn thành nốt nhiệm vụ cách mạng dân chủ. ở nông thôn cơ cấu các loại hình kinh tế biến đổi sâu sắc: Kinh tế địa chủ không còn, kinh tế phú nông bị hạn chế, hầu hết cố nông đều được chia ruộng và trở thành các hộ sản xuất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân phần lớn là tiểu nông đã trở thành trung tâm trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, do bình quân ruộng đất một đầu người thấp, trình độ canh tác còn lạc hậu và manh mún nên kinh tế hộ nông dân vẫn còn là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc.
- Giai đoạn 1958 - 1960: Trong kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế, nông nghiệp về cơ bản đã hoàn thành hợp tác hoá với các hình thức hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy mô xóm, thôn và một số hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã cung tiêu v.v... Đồng thời bắt đầu xây dựng thêm các nông trường quốc doanh ở trung du miền núi và ven biển. Như vậy, từ cuối 1960, trong nông nghiệp nước ta chủ yếu là hai loại hình kinh tế hợp tác quy mô nhỏ và các nông trường quốc doanh, song trang bị kỹ thuật còn lạc hậu, cách thức sản xuất còn quảng canh, tái sản xuất giản đơn. Lực lượng kinh tế nhỏ cá thể còn lại không nhiều, đa số là trung nông, một số là phú nông đang chịu sức ép lôi kéo vào hợp tác xã.
- Giai đoạn từ 1961 - 1975: Miền Bắc đã tiến hành thắng lợi 3 kế hoạch 5 năm, củng cố và nâng cao chế độ hợp tác xã, xây dựng và phát triển nông trường quốc doanh, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, phát triển mạnh sản xuất nông nghiệp đồng thời đã chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc, chi viện toàn diện nhân, tài, vật lực cho chiến trường miền Nam. Trong giai đoạn này, biến động của các hình thức kinh tế trong nông nghiệp có một số điểm như sau:
+ Qua các cuộc vận động cải tiến kỹ thuật thi đua phát triển sản xuất, đưa hợp tác xã lên bậc cao, trong những năm 1961 - 1965, rồi các cuộc vận động dân chủ và cải tiến quản lý hợp tác xã trong những năm sau đó, kinh tế hợp tác xã lớn mạnh cả về số lượng và quy mô. Đến năm 1975 đã có 97% số hộ vào hợpt ác xã, và cơ bản đưa các hợp tác xã lên bậc cao với quy mô thôn, trong đó có 88% hợp tác xã bậc cao và khoảng 18% hợp tác xã liên thôn và hợp tác xã toàn xã.
+ Cùng với quá trình củng cố và phát triển hợp tác xã là việc xây dựng thí điểm một số nông, lâm, ngư trường các trạm, trại kỹ thuật nông nghiệp. Trong những năm 1958 - 1960, loại hình kinh tế quốc doanh được phát triển nhanh chóng, trong thời gian 1961 - 1968 và sau đó được tiếp tục củng cố, mở rộng qua các cuộc vận động tăng cường xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, thực hiện thâm canh, cải tiến kỹ thuật và cải tiến quản lý. Tính đến năm 1975 miền Bắc đã có 365 nông, lâm trường, trạm trại nghiên cứu thực nghiệm được phân bố chủ yếu ở trung du, miền núi và ven biển.
+ Như vậy, trong giai đoạn 1961 - 1975 trong nông thôn miền Bắc đã tồn tại hai loại hình kinh tế chủ yếu: "kinh tế hợp tác xã với mô hình tập thể hoá triệt để và toàn diện" và "kinh tế quốc doanh với các nông, lâm, ngư trường và các trạm trại kỹ thuật, quy mô lớn và được quản lý tập trung bao cấp"; Còn kinh tế nông hộ lúc này đã được chuyển vào kinh tế các hợp tác xã và kinh tế các xí nghiệp quốc doanh. Các gia đình chỉ còn có kinh tế phụ dựa vào lao động ngoài giờ trên 2 - 5% đất để lại mà thôi. Hai mô hình kinh tế "tập thể triệt để toàn diện" và "kinh tế quốc doanh quy mô lớn, quản lý tập trung bao cấp" nói trên do phù hợp với mục tiêu và lợi ích tối cao của dân tộc là tất cả cho giải phóng miền Nam.
ở miền Nam
Trong những năm 1955 - 1963, chính sách cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm thông qua các dụ số 5, số 7, và số 57 lập lại khế ước tá điền, định mức tô nông dân phải nạp, mức hạn điền, thực chất là lấy lại ruộng đất của người dân được cách mạng tạm cấp, tạm giao trong kháng chiến chống Pháp. Đầu năm 1970 Nguyễn Văn Thiệu ban hành "Luật người cày có ruộng" bề ngoài là để xoa dịu nhân dân nhưng thực chất là để phát triển tầng lớp tư sản nông dân.
Đồng thời cũng trong thời gian đó, chính quyền Sài Gòn cho phép các quan chức, tướng lĩnh, các nhà tư sản Việt Nam và tư bản nước ngoài lập các đồn điền và đinh điền ở Đông Nam bộ, Tây Nguyên và một số ở Tây Nam bộ nhằm phát triển các loại hình kinh tế hàng hoá lớn tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và xây dựng các pháo đài, các khu đồn trú về mặt quốc phòng. Ngay từ cuối năm 1962 theo số liệu của Bộ Lao động Ngụy quyền Sài Gòn miền Nam đã có 755 đồn điền trong đó: 335 đồn điền cao su, 198 đồn điền cà phê, 45 đồn điền chè, 177 đồn điền hỗn hợp. Các đồn điền nói trên có diện tích 93.000 ha trồng trọt và 62.000 công nhân. Đến cuối năm 1963 thành lập thêm được 198 đinh điền với 50931 hộ gia đình và 118.000 ha đất nông nghiệp (chưa kể 8 nông trường của tư bản Mỹ).
Như vậy, các loại hình kinh tế nông nghiệp miền Nam hình thành và phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa với các hình thức chủ yếu là kinh tế trang trại hàng hoá gắn với thị trường tư bản chủ nghĩa, kinh tế đồn điền và đinh điền của các nhà tư bản người Việt Nam và người nước ngoài.
Thời kỳ 1976 - đến nay
Thời kỳ cả nước thống nhất và hoà bình xây dựng. Trong thời kỳ này cũng được chia làm hai giai đoạn, trước và sau đổi mới.
Giai đoạn từ 1976 - 1986
- ở miền Bắc: Tiến hành cuộc vận động tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, cải tiến một bước quản lý từ cơ sở theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Chỉ thị 208 CT/TW ngày 16/9/1974 của Ban Bí thư và Nghị quyết 61/CP ngày 5/4/1976 của Hội đồng Bộ trưởng. Tính đến tháng 5/1978 toàn miền Bắc đã có 3927 hợp tác xã chiếm 30% tổng số hợp tác xã tiến hành cuộc vận động. Số hợp tác xã toàn xã đã lên tới 59,8%, quy mô hình quân mỗi hợp tác xã ở đồng bằng là 300 - 400 ha canh tác, ở miền Nam có từ 1000 đến 2000 ha đất nông, lâm nghiệp. Trong nông, lâm trường quốc doanh tiến hành quy hoạch lại sản xuất, tổ chức các phân trường, các đội, tăng cường sự quản lý chặt chẽ theo cơ chế tập trung bao cấp. Đặc biệt ở hai huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) và Nam Ninh (Nam Định) được tiến hành thí điểm cuộc vận động tổ chức lại trên địa bàn huyện. Cuộc vận động đã đem lại kết quả không mong muốn, biểu hiện trên những khía cạnh chủ yếu sau đây:
+ Người lao động nông dân và công nhân nông nghiệp mất quyền người chủ trực tiếp sản xuất nông nghiệp, không quan tâm đến mọi hoạt động sản xuất của hợp tác xã và nông, lâm, trường mà chỉ để tâm đến kinh tế phụ gia đình trên đất 5% và trong các hoạt động lao động khác.
+ Quy mô hợp tác xã và nông trường ngày càng lớn thì bộ máy cồng kềnh, quản lý càng tập trung quan liêu, dẫn đến lãng phí lớn, tham ô phổ biến, tài sản thất thoát, ruộng đồng bỏ hoang.
+ Năng suất và sản lượng nông nghiệp giảm sút liên tục và nghiêm trọng, thu nhập của xã viên từ kinh tế tập thể hợp tác xã giảm xuống chỉ còn 30 - 40% tổng thu nhập của hộ xã viên. Trong nông trường tình trạng nợ lương công nhân trở thành phổ biến và kéo dài liên miên.
+ Vẫn loay hoay trong sản xuất lương thực tự cấp, tự túc mà hàng năm mức sản lượng lương thực bình quân đầu người liên tục giảm xuống, lượng gạo nhập khẩu mỗi năm tăng dần lên và tới trên 1 triệu tấn.
- ở miền Nam: Với ý muốn nhanh chóng đưa kinh tế miền Nam đồng nhất với kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc nên công cuộc hợp tác hoá trong nông nghiệp ở miền Nam được xúc tiến sớm và đẩy nhanh theo mô hình hợp tác hoá ở miền Bắc song không phù hợp với điều kiện kinh tế hàng hoá đã phát triển tương đối cao và tâm lý, thói quen với thị trường của nông dân Nam bộ. Đến năm 1980, phần lớn hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã, sự tranh chấp đất đai trở nên gay cấn. Cũng trong thời gian này, các đồn điền, dinh điền lớn dưới chế độ cũ được tiếp quản và chuyển thành các nông, lâm trường quốc doanh, đồng thời xây dựng thêm một loạt lâm, nông trường mới. Do tốc độ phát triển nhanh, quy mô quá lớn, cơ chế quản lý tập trung bao cấp làm thui chột tính năng động, tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh hàng hoá vốn đã có, nên sự trì trệ kinh doanh của loại hình doanh nghiệp này cũng tương tự như ở miền Bắc.
Trước tình hình nông nghiệp trì trệ, kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã suy giảm, hiện tượng khoán chui ngày càng phổ biến, Đảng đã thận trọng, nghiêm túc xem xét, phân tích và ra chỉ thị 100/CT về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VI. Chỉ thị 100/CT đã bước đầu giải phóng lao động nông dân, gắn trách nhiệm và lợi ích của họ với sản phẩm cuối cùng trên ruộng khoán, khuyến khích đầu tư thêm lao động, phân bón, vật tư để thu thêm nhiều sản phẩm vượt khoán. Kết quả đem lại 6 - 7 vụ được mùa liên tiếp, sản lượng lương thực tăng gần 1 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, động lực khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động đến cuối 1983 đầu 1984 thì chững lại và dần dần giảm xuống. Bởi lẽ khoán sản phẩm mới chỉ điều chỉnh cơ chế phân phối và cơ chế quản lý lao động giữa người lao động và hợp tác xã, giữa công nhân lao động và nông trường, chưa thiết lập được quyền làm chủ đầy đủ các hộ nông dân. Mặt khác việc kéo dài cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm cho nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng chưa thoát ra khỏi tình trạng trì trệ. Tình hình đòi hỏi cần có những giải pháp đổi mới mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn và sâu sắc hơn.
Giai đoạn từ 1987 đến nay
Trong giai đoạn này liên tục trong các Nghị quyết đại hội VI, VII, VIII, IX, Đảng ta thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách đó trong nông nghiệp được cụ thể và hoàn thiện trong các văn bản quan trọng mang tính lịch sử như: Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá VI (5/4/1988), Nghị quyết 6 Trung ương khoá VI (3/1989), Luật đất đai (1993), Nghị quyết V của khoá VII (6/1993), Luật hợp tác xã (4/1996) v.v... Những nội dung cơ bản về đổi mới nông nghiệp theo tinh thần các văn bản trên được thể hiện như sau:
Xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giao đất, cấp sổ đỏ, quy định 5 quyền sử dụng đất lâu dài cho nông hộ.
Phát triển mạnh kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại gia đình theo hướng hàng hoá gắn với thị trường, khuyến khích phát triển các hình thức trang trại tư nhân. Sau 15 năm đổi mới, hơn 10 triệu nông hộ được khôi phục và phát triển khẳng định là những đơn vị kinh tế tự chủ đang dần chuyển sang sản xuất hàng hoá. Hơn nữa trong quá trình vận động phát triển của kinh tế hộ trên các miền đất nước không ít nông dân làm ăn giỏi đã trở thành các chủ trang trại giàu có. Tính đến đầu năm 2000 cả nước có 115 ngàn trang trại(1). Qua số liệu khảo sát 3044 trang trại ở 15 tỉnh thuộc 7 vùng kinh tế, trong đó có 2.619 trang trại nông nghiệp, 121 trang trại lâm nghiệp và 280 trang trại kinh doanh thủy sản. Riêng về nông nghiệp kinh doanh cây ngắn ngày có 421 trang trại, cây công nghiệp lâu năm 1.588 trang trại, cây ăn quả 344 ttang trại và chăn nuôi 266 trang trại. Nhìn chung quy mô kinh doanh và mức thu nhập của hộ trang trại cao hơn gấp nhiều lần so với các hộ nông nghiệp nhỏ tự cấp, tự túc. Quy mô bình quân chuyên một trang trại về đất nông nghiệp là 6,63 ha; về vốn là 291,43 triệu; về doanh thu hàng năm 105,426 triệu đồng với tỷ suất hàng hoá gần 87% và thu nhập đạt 43,723 triệu chiếm gần 41,5% doanh thu. Như vậy, sự phát triển của kinh tế hộ và kinh tế trang trại trong thời gian qua nói lên tính đúng đắn về đường lối đổi mới nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời khẳng định kinh tế nông hộ, từng bước chuyển lên kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá, chuyên canh, thâm canh là hình thức tổ chức sản xuất thích hợp với đặc điểm sinh vật, sinh thái của nông nghiệp, với tính tư hữu và thực tế truyền thống của nông dân.
Từng bước đổi mới mô hình hợp tác xã kiểu cũ.
Chuyển đổi các hợp tác xã nông nghiệp theo mô hình tập thể hoá sang làm dịch vụ đầu vào, đầu ra cho kinh tế hộ tự chủ và đăng lý hoạt động theo Luật hợp tác xã 1996, khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác đa dạng về nội dung kinh doanh, về quy mô và trình độ liên kết xuất phát từ yêu cầu của sản xuất và sự tự nguyện của các hộ nông dân trong điều kiện cụ thể của từng vùng. Việc chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang mô hình mới theo luật hợp tác xã đã và đang được tiến hành trên mọi miền đất nước. Tính đến đầu năm 2000 đã chuyển đổi được 5.346 hợp tác xã chiếm 59% tổng số hợp tác xã. Số hợp tác xã chưa chuyển đổi vẫn còn hơn 4000 hợp tác xã phần lớn là ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng và trung du, miền núi phía Bắc. Trong số hợp tác xã được chuyển đổi không ít vẫn là "bình mới rượu cũ" mới chỉ thay đổi về bộ máy tổ chức và con người quản lý mà chưa có sự đổi mới về nội dung và phưoưng thức hoạt động kinh doanh. Trong những hợp tác xã làm đúng những quy định của luật hợp tác xã thì hoạt động tương đối tốt, đã tiếp nhận, quản lý sử dụng hệ thống các công trình thủy lợi, điện, nước, đường giao thông, vốn, quỹ để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả. Nhiều hợp tác xã đã giảm được giá dịch vụ so với trước và với bên ngoài từ 10% trở lên. Một số hợp tác đã biết thuyết phục, động viên, hướng dẫn các xã viên dồn điền, đổi thửa, quy vùng sản xuất, tập trung chuyển cơ cấu cây trồng, mùa vụ, con nuôi theo hướng chuyên canh, thâm canh những cây trồng và con nuôi có giá trị hàng hoá cao và thu nhập lớn. Không ít hợp tác xã đã khôi phục lại những ngành nghề truyền thống như mây, tre đan, vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, dệt chiếu v.v... thông qua cơ chế liên kết cùng có lợi với các hộ xã viên, bảo đảm cung ứng đầu vào và bao tiêu cho họ. Hơn nữa nhiều hợp tác xã đã biết tranh thủ các dự án trong các chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xoá đói giảm nghèo, trồng rừng v.v... vừa thúc đẩy phát triển kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại vừa mở rộng thêm quy mô và nội dung kinh doanh thiết thực, tăng năng lực tài chính và thu nhập của hợp tác xã.
Ngược lại trong những hợp tác xã chưa chuyển đổi, hoặc chuyển đổi hình thức thì nông hộ phải tự lo hầu như mọi khâu, mọi việc, loay hoay trên những ruộng manh mún trồng lương thực, còn hợp tác xã chỉ làm nhiệm vụ dịch vụ ở khâu thủy nông, điện, bảo vệ thực vật với cung cách cửa quyền trước đây... Hợp tác xã chỉ sống dựa vào thu thuế, phí dịch vụ đặc biệt là lệ phí quản lý theo đầu sào.
Bên cạnh việc chuyển đổi sang hợp tác xã kiểu mới thì ở các hợp tác xã kiểu cũ quá yếu kém tự tan rã và giải thể. Trước đòi hỏi của việc phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, các nông hộ, nông trại lại tự nguyện liên kết với nhau để hình thành và xây dựng những hình thức hợp tác thích hợp với nhu cầu thực tế của họ. Đến đầu năm 2000 cả nước đã thành lập mới được 1037 hợp tác xã nông nghiệp và hơn 50.000 tổ kinh tế hợp tác, trong đó các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chiếm hơn 80% tổng số hợp tác xã và tổ kinh tế hợp tác nói trên. Các hợp tác xã mới không chỉ dừng lại ở việc làm tốt 3 khâu, mà họ năng nổ tìm cách liên kết với các cơ quan nghiên cứu để có giống tốt năng suất cao, với các công ty kinh doanh bán buôn, chế biến nhằm bảo đảm việc tiêu thụ sản phẩm ổn định, giá cả phải chăng và với các công ty vật tư kỹ thuật nông nghiệp để được cung ứng kịp thời phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng, thức ăn và thuốc chữa bệnh cho gia súc, gia cầm v.v... Một số hợp tác xã chú ý mở rộng kinh doanh những ngành nghề dễ bán, dễ tiêu thụ và cho thu nhập cao. Vai trò của các tổ kinh tế hợp tác cũng ngày càng to lớn và thiết thực trong phát triển kinh tế hàng hoá trong hoạt động kinh tế thị trường. Chúng không còn là đổi công và vần công như trước, mà giúp nhau, cùng nhau trao đổi các thông tin thị trường, công nghệ mới, kỹ thuật thâm canh, kinh nghiệm mua bán, cạnh tranh và nhất là việc tín chấp vay vốn ngân hàng v.v...
Tóm lại, quá trình chuyển đổi hợp tác xã và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác mới trong nông nghiệp đang đi dần vào theo luật và phù hợp với yêu cầu cụ thể trong việc phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại trong từng địa phương. Tuy nhiên, cũng nảy sinh không ít những vấn đề mới trong phát triển kinh tế hợp tác cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết thoả đáng như điều kiện và thời cơ ra đời, cơ cấu kinh doanh, hình thức, quy mô và cơ chế hoạt động kinh doanh của hợp tác xã v.v...
Đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp.
Trong nông, lâm, ngư trường, các trạm trại kỹ thuật và các doanh nghiệp khác trong ngành đã và đang thực hiện các nội dung chủ yếu sau đây:
Các nông, lâ,, ngư trường đã giao đất, giao vườn cây, mặt nước, thực hiện khoán sản phẩm đến hộ gia đình công nhân viên và một số nông dân trong vùng, coi hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, bảo đảm dịch vụ giống, vật tư kỹ thuật, công nghệ và bao tiêu sản phẩm cho các hộ.
Đến nay hầu hết các nông, lâm trường đã chuyển thành các doanh nghiệp nông nghiệp với hình thức công ty, tổng công ty. Đó là những đơn vị kinh doanh hạch toán theo cơ chế thị trường tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và hiệu quả tài chính, Nhà nước chỉ hướng dẫn, không can thiệp trực tiếp vào kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng vậy, các doanh nghiệp Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp trực tiếp trên đồng ruộng của các hộ công nhân viên mà thông qua việc quản lý đất đai, vườn cây, thu thuế sử dụng đất đặc biệt là thông qua việc liên kết kế hoạch về sản phẩm kinh doanh và sử dụng đất với các hộ nông dân, cùng họ ký kết các hợp đồng kinh tế dịch vụ bình đẳng, cùng có lợi.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước trong ngành theo tinh thần Chỉ thị 20-1998/CT-TTG ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đề án dự kiến.
Nhóm 1: Những doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn Nhà nước là 132 đơn vị trong 32 doanh nghiệp công ích và 100 doanh nghiệp kinh doanh những ngành hàng xuất khẩu lớn tạm thời chưa cổ phần hoá.
Nhóm 2: Gồm những doanh nghiệp cần cổ phần hoá chuyển đổi cơ cấu sở hữu với 131 đơn vị trong đó có 37 doanh nghiệp được Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt.
Nhóm 3: Nhóm các doanh nghiệp yếu kém thua lỗ cần thực hiện bán, khoán, cho thuê và giải thể là 29 đơn vị trong đó có 7 doanh nghiệp cần giải thể. Thế nhưng việc cổ phần hoá nhằm đa dạng hoá sở hữu, nâng cao tính năng động tự chủ trong kinh doanh cũng mới tiến hành được ở một số rất ít doanh nghiệp, phần lớn là doanh nghiệp vừa và làm ăn khá. Từ thực tế cổ phần hoá chậm chạp đó, nên đi sâu xem xét và giải quyết những vướng mắc về nội dung, mức độ và phương thức cổ phần hoá.
Trong 32 đơn vị doanh nghiệp Nhà nước công ích gồm có các doanh nghiệp sản xuất giống cây con, trồng rừng phòng hộ, quản lý và khai thác các công trình thủy lợi lớn, sản xuất muối ăn v.v... Nhìn chung, loại hình doanh nghiệp Nhà nước này chưa tiến bộ nhiều về mặt kinh doanh theo tính đặc thù của mình. Hoặc chỉ nặng vào kinh doanh giống thương phẩm, chưa quan tâm đúng mức giống nguyên chủng và siêu nguyên chủng, chưa lập ngân hàng dự trữ và kinh doanh quỹ gen như trong hệ thống sản xuất giống; hoặc chưa biết tổ chức kinh doanh như thế nào đối với những sản phẩm và dịch vụ mang tính công ích cao như trồng rừng phòng hộ, quản lý và khai thác các công trình thuỷ lợi lơn v.v...
Xu hướng vận động và những giải pháp phát triển kinh tế trang trại.
Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại
Trang trại ban đầu là hình thức tổ chức sản xuất mông, lâm, ngư cơ sở, do các chủ trại gia đình và chủ trại tư nhân trực tiếp tiến hành tổ chức sản xuất trên một khu đất tập trung, liền khoảnh đủ lớn để chuyên canh, thâm canh, ứng dụng những công nghệ mới nhằm cung cấp hàng hoá thường xuyên cho thị trường và quản lý sản xuất chặt chẽ để tiết kiệm các chi phí sản xuất. Song khi đi vào kinh tế thị trường thì hoạt động của trang trại không chỉ dừng lại ở sản xuất và tổ chức sản xuất mà được mở rộng sang kinh doanh với mục đích thu lợi nhuận tối đa và từ đấy trang trại phải xử lý nhiều vấn đề kinh tế, phải đưa ra các chiến lược kinh doanh thích ứng với thị trường, phải quản lý theo phương thức marketing, theo chế độ kế hoạch và hạch toán gắn với phân tích tài chính với hiệu quả kinh doanh, với doanh lợi. Như vậy ngày nay trang trại phải hiểu đầy đủ là kinh tế trang trại, hoặc kinh tế của chủ trang trại - đơn vị kinh doanh cơ sở trực tiếp sản xuất trồng trọt trên đồng ruộng và chăn nuôi trong chuồng trại. Đó là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm và thủy sản với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, có quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đủ lơn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và quản lý tiến bộ.
Có nhiều tiêu chí để xác định kinh tế trang trại. Theo thông tư số 69 (tháng 6/2000) của liên bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê đưa ra hai tiêu chí: Một là, giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm của trang trại (Đối với miền Bắc có quy mô 40 triệu đồng và miền Nam - 50 triệu đồng trở lên). Hai là, quy mô sản xuất của trang trại phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế hộ nông dân tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế (quy mô diện tích và số lượng đầu vật nuôi). Hai tiêu chí nêu trên cần làm rõ vị trí của từng tiêu chí, trong đó tiêu chí quy mô giá trị sản lượng hàng hoá hàng năm của trang trại là cơ bản, tiêu chí thứ 2 - quy mô sản xuất của trang trại là bổ sung, là cơ sở để nhận dạng ban đầu để trên cơ sở đó điều tra, tính toán quy mô giá trị sản lượng hàng hoá và xác định kinh tế trang trại.
Những đặc trưng của kinh tế trang trại
Từ định nghĩa nói trên, kinh tế trang trại có những đặc trưng cơ bản sau đây :
- Kinh doanh sản xuất nông sản phẩm hàng hoá cho thị trường. Tỷ suất hàng hoá thường đạt 70 - 80% trở lên. Tỷ suất hàng hoá càng cao càng thể hiện bản chất và trình độ phát triển của kinh tế trangtrại.
- Chủ trang trại là chủ kinh tế cá thể (bao gồm kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ) nắm một phần quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử dụng đối với ruộng đất. Tư liệu sản xuất, vốn và sản phẩm làm ra.
- Quy mô sản xuất của trang trại trước hết là quy mô đất đai được tập trung đến mức đủ lớn theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá, chuyên canh và thâm canh, song không nên vượt quá tầm kiểm soát quá trình sản xuất - sinh học trên đồng ruộng hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại.
- Cách thức tổ chức và quản lý đi dần vào phương thức kinh doanh song trực tiếp, đơn giản và gọn nhẹ vừa mang tính gia đình vừa mang tính doanh nghiệp.
- Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý, có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh, về thị trường.
Nguồn gốc hình thành và phát triển kinh tế trang trại
Trong nông nghiệp nước ta từ sau đổi mới kinh tế trang trại được hình thành và phát triển từ ba nguồn gốc:
+ Từ kinh tế nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc đi dần vào kinh doanh sản xuất hàng hoá và trở thành hộ sản xuất giỏi rồi chuyển lên kinh tế trang trại gia đình. Loại hình trang trại này chiếm số đông, thông thường khoảng 60 - 80% tổng số trang trại tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng vùng, từng địa phương.
+ Một số người trong các bộ phận dân cư khác có khả năng kinh tế bỏ vốn ra thuê đất hoặc mua đất lập trang trại. Loại này gọi là trang trại tiểu chủ, ngày càng tăng thêm song cũng chỉ vào khoảng 10%.
+ Những hộ nhận khoán trở thành đơn vị kinh tế tự chủ trong các nông, lâm trường quốc doanh. Loại trang trại này chủ yếu kinh doanh sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao.
Những giải pháp phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại
Hiện nay trong nông nghiệp nước ta có trên 10 triệu nông hộ, trong đó các hộ trang trại chiếm tỷ trọng còn rất ít, mới khoảng 15 ngàn hộ đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. Do vậy việc phát triển kinh tế hộ, từng bước chuyển kinh tế hộ lên kinh tế trang trại theo định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề chiến lược cơ bản lâu dài được khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước ta.
Những giải pháp trước mắt
Hiện nay kinh tế nông hộ kinh tế nông hộ và nông trại đang đi vào sản xuất hàng hoá, chịu sự chi phối của cơ chế thị trường, song chưa nắm bắt được thị trường, chưa biết và chưa đủ điều kiện để tổ chức sản xuất thích hợp với thị trường. Vì vậy, trước mắt Nhà nước cần thực hiện thông tin thị trường cụ thể hơn và trở thành chế độ thường xuyên hàng năm nhất là trước khi bắt đầu các mùa vụ gieo trồng và thu hoạch, cần tiếp tục hoàn thiện và cải tiến các chính sách về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài, về chuyển giao công nghệ thiết thực, trung thực, có chất lượng và có bảo đảm; về đầu tư và cho vay vốn gắn với các dự án kinh doanh của các nông hộ, các trang trại hoặc dự án phát triển nông nghiệp hàng hoá của cộng đồng thôn xã và được ngân hàng kiểm chứng. Còn nông hộ nông trại với tư cách đơn vị kinh tế cơ sở tự chủ, cần chủ động lựa chọn lấy ngành sản xuất hàng hoá thiết thực có thị trường tiêu thụ trong tầm tay và đưa lại lợi nhuận cao hơn, trên cơ sở đó mạnh dạn tổ chức lại đồng ruộng của mình, thực hiện thâm canh theo đúng quy trình kỹ thuật thông qua việc chủ động thực hiện các hợp đồng về đầu vào với các doanh nghiệp dịch vụ vật tư kỹ thuật và công nghệ về tiêu thụ sản phẩm, với doanh nghiệp kinh doanh chế biến hay kinh doanh thương nghiệp loại sản phẩm của mình.
Những giải pháp cơ bản và lâu dài
Con đường đưa kinh tế nông hộ lên kinh tế trang trại nông, công, thương theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước là một nội dung quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và hiện đại hoá nông thôn, do vậy cần phải tiến hành những giải pháp lớn, cơ bản mang tầm chiến lược.
Một là, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn lên công - nông - dịch vụ. Trong quá trình chuyển dịch này sự phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ nông thôn sẽ thu hút ngày càng nhiều lao động nông nghiệp và hộ nông dân sang làm chuyên hoặc làm kiêm các ngành nghề nào đó ngay trên hương trấn của mình. Kết quả của sự phân công lao động xã hội "ly nông bất ly hương" một mắt nâng dần tỷ trọng các hộ chuyên và kiêm làm công nghiệp, dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn, mặt khác gắn với sự giảm dần tỷ trọng về lao động và hộ làm nông nghiệp, thì mức ruộng đất bình quân đầu người và mỗi hộ tăng lên, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại.
Hai là, phát triển mạnh thị trường nông thôn, đưa kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại dần dần trở thành tế bào của kinh tế thị trường. Điều này đòi hỏi phải làm cho được những việc sau:
+ Thực hiện đồng bộ thị trường, không dừng lại ở thị trường hàng hoá sản phảm và hàng hoá dịch vụ, mà phải công khai và pháp lý hoá thị trường các yếu tố sản xuất hoạt động đúng với quy luật khách quan và được Nhà nước kiểm soát, vừa cho phép hạch toán đầy đủ và tương đối chính xác giá thành sản phẩm trong cạnh tranh và tránh không bị thiệt thòi trong hội nhập.
+ Mạng lưới thị trường nông thôn cần được mở rộng. Ngoài việc tổ chức và mở rộng các chế độ nông thôn truyền thống, chú ý xây dựng các trung tâm thương mại ở các thị tứ, thị trấn tổ chức và hướng dẫn các quan hệ giao dịch giữa trang trại với các doanh nghiệp dịch vụ đầu vào và đầu ra.
Ba là, thúc đẩy quá trình liên doanh liên kết hợp quy luật và thực sự tôn trọng sự tự nguyện của các chủ hộ và chủ trang trại. Kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại không chỉ là những đơn vị kinh tế tự chủ trong liên kết mà còn có tính độc lập cao trong kinh doanh cùng một lúc có thể tham gia vào một số liên doanh, liên kết cần thiết cho mình, hơn nữa sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ và kinh tế trang trại còn là cơ sở, là nền tảng sống còn của các liên doanh, liên kết. Do vậy cần coi liên kết, liên doanh là hình thức phát triển kinh tế trang trại ở mức cao hơn, phức tạp hơn với những hình thức phù hợp được nông hộ và trang trại chấp nhận.
Bốn là, kết hợp với các chương trình trồng 5 triệu ha rừng trên đất trống đồi núi trọc, chương trình nuôi trồng thủy sản trên diện tích mặt nước ở các vùng ven biển và vùng đồng bằng để xây dựng các vùng kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá cao.
+ Đối với các vùng đã có dân cư được Nhà nước xác định hướng kinh doanh quy hoạch tổng thể, giúp đỡ xây dựng kết cấu hạ tầng và hướng dẫn cộng đồng đi vào sản xuất theo mô hình trang trại.
+ ở những vùng kinh tế mới, Nhà nước nên tiến hành quy hoạch cụ thể, xây dựng trước một bước kết cấu hạ tầng rồi mới chuyển dần đến. Dân tiến hành sản xuất trên đất được giao theo hướng kinh doanh và quy trình kỹ thuật đã được quy hoạch và liên kết với các công ty Nhà nước hoặc công ty tư nhân để được dịch vụ kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm.
+ Trên cả hai vùng nói trên, vai trò của các công ty cực kỳ quan trọng. Ngoài những công ty Nhà nước cần có, nên có chính sách đầu tư thông thoáng hơn các khu công nghiệp để khuyến khích các công ty tư nhân bỏ vốn vào các vùng phát triển các cụm chế xuất nông lâm sản hoặc các cụm dịch vụ chế biến - bao tiêu.
Năm là, hoàn thiện hệ thống chính sách đối với phát triển kinh tế trang trại như các chính sách: đất đai, đầu tư và tín dụng, công nghệ và chuyển giao công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, việc làm và thị trường nông sản.
Kinh tế tập thể và tiếp tục đổi mới hợp tác xã trong nông nghiệp
Những kiến thức cơ bản về kinh tế tập thể trong nông nghiệp
Bản chất của kinh tế tập thể
Hoạt động sản xuất là đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người. Để có hoạt động sản xuất được, thì như Các Mác đã chỉ rõ: "Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau, và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là
- 1 Các thủ tục báo hiệu
- 2 Nội dung của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
- 3 Bệnh màng trong
- 4 Thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân
- 5 tỉ lệ hóa hàm số mạch (scaling network function)
- 6 Một số khái niệm về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp
- 7 Diệp lục
- 8 Biện pháp kỹ thuật an toàn điện
- 9 Khái niệm chi phí sản xuất và cách phân loại chi phí sản xuất chủ yếu
- 10 Phẩm giá người phụ nữ trong suy nghĩ và cảm nhận của nữ sinh Hà Nội tuổi 15