31/05/2017, 11:54

Giới thiệu về Nguyễn Trãi và sự nghiệp thơ văn của ông

Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở, chúng ta đã được học một số tác phẩm của Nguyễn Trãi. Em hãy viết một bài giới thiệu về Nguyễn Trãi và sự nghiệp thơ văn của ông. Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ...

Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở, chúng ta đã được học một số tác phẩm của Nguyễn Trãi. Em hãy viết một bài giới thiệu về Nguyễn Trãi và sự nghiệp thơ văn của ông. Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Ông đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm 1407, giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha ông bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành ...

Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở, chúng ta đã được học một số tác phẩm của Nguyễn Trãi. Em hãy viết một bài giới thiệu về Nguyễn Trãi và sự nghiệp thơ văn của ông.

Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Ông đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm 1407, giặc Minh xâm chiếm nước ta, cha ông bị giặc bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quan. Sau đó ông trốn vào Lam Sơn và dâng Bình Ngô sách lên Lê Lợi, trở thành vị quân sư "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời".

Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo Bình Ngô đại cáo, sau đó được cử làm Chánh chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép, gièm pha. Nguyễn Trãi từ quan về Côn Sơn ở ẩn; Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước.

Năm 1442, xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc"; Mãi đến nám 1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.

Nguyễn Trãi là người anh hung thủa "Bình Ngô", văn võ toàn tài. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, tất cả các tác phẩm này thể hiện phẩm chất trung quân ái quốc của ông. Nhiều tác phẩm trở thành áng văn bất hủ trong kho tàng văn học dân tộc. Có thể kể ra một số tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo, Dư địa chí, Lam Sơn thực lục, Chí Linh sơn phú, Quốc âm thi tập, ức Trai thi tập…

Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các tác phẩm của Nguyễn Trãi là từ tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc.

Thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân (trừ bạo), đem lại yên vui, hạnh phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là "đại nghĩa" (nghĩa lớn vì nước vì dân), là lòng "chí nhân" (thương người vô hạn):

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo".

Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân "cuồng Minh":

“Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống”.

Tư tưởng nhân nghĩa của ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng "trung hiếu" và niềm "ưu ái" (lo nước, thương dân):

"Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen".
"Bui một tấc lòng ưa ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông".

Văn thơ Nguyễn Trãi còn thề hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, đối với quế hương, gia đình:

–    Yêu thiên nhiên:
+ Yêu cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông…
"Hái cúc ương lan, hương bên áo
Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn".
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chờ yên hà nặng vạy then".
"Cò nằm, hạc lẩn nên bầu bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con".
+ Yêu quê hương gia đình:
"Ngỏ cửa nho, chờ khách đến
Trồng cây đức, để con ăn".
"Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha".
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao".
+ Yêu danh lam thắng cảnh:
"Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rủ mành",
"Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,
Muôn hộc xanh om tóc mượt màu".
"Kình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáp gươm chìm gãy bãi bao tầng".

Thơ văn ông còn thể hiện một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao:

"Một tấm lòng son ngời lửa luyện.
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng".
“Nước biển non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu".
"Say minh nguyệt, chè ba chén
Thú thanh phong, lều một gian".
"Sách một hai phiến làm bầu bạn.
Rượu năm ba chén đổi công danh".

Văn chính luận như Bình Ngô đại cáo thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc chiến thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời.

Thơ chữ Hán hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm bình dị mà tài hoa, thiết tha đằm thắm. Thơ thất ngộn xen lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc.

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hóa vĩ đại, là đại thi hào dân tộc. Nguyễn Trãi còn là ông tiên ở trong lầu ngọc mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc.

0