23/02/2018, 07:22

Giới thiệu đề thi giữa kì 2 lớp 6 môn Văn – Bình Giang có đáp án năm 2016

Đề thi giữa học kì 2 môn Văn lớp 6 của phòng GDĐT Bình Giang năm học 2016 . Đề thi gồm 3 câu tự luận thời gian làm bài 90 phút và có đáp án PHÒNG GD&ĐT BÌNH GIANG ĐỀ CHÍNH THỨC ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG GIỮA KÌ II NĂM HỌC 2015 – 2016 MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 6 Thời ...

Đề thi giữa học kì 2 môn Văn lớp 6 của phòng GDĐT Bình Giang năm học 2016. Đề thi gồm 3 câu tự luận thời gian làm bài 90 phút và có đáp án

PHÒNG GD&ĐT BÌNH GIANG

ĐỀ CHÍNH THỨC

ĐỀ KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG GIỮA KÌ II

NĂM HỌC 2015 – 2016

MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 6

Thời gian làm bài: 90 phút

(Đề bài gồm 01 trang)

Câu 1 (2,0 điểm)

a) Nhân hóa là gì?

b) Hãy chỉ ra và nêu tác dụng của phép nhân hóa trong đoạn văn sau:

          “Càng về ngược, vườn tược càng um tùm. Dọc sông, những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước. Núi cao như đột ngột hiện ra chắn ngang trước mặt. Đã đến Phường Rạnh. Thuyền chuẩn bị vượt thác”

                                            (Vượt Thác – Võ Quảng)

Câu 2 (3,0 điểm)

Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:

Chú bé loắt choắt

Cái xắc xinh xinh

   Cái chân thoăn thoắt

    Cái đầu nghênh nghênh

          

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sáo vang

Như con chim chích

Nhảy trên vàng.

a) Đoạn thơ trên trích trong văn bản nào? Tác giả là ai?

b) Văn bản ấy thuộc thể loại gì? Nêu hoàn cảnh sáng tác?

c) Hãy chỉ ra các từ láy có trong đoạn thơ trên và nêu tác dụng trong việc miêu tả nhân vật?

Câu 3 (5,0 điểm)

Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em.

——————-HẾT——————-

PHÒNG GD&ĐT BÌNH GIANG

HƯỚNG DẪN CHẤM

 KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG GIỮA KÌ II

MÔN: NGỮ VĂN – LỚP 6

Câu

Yêu cầu về nội dung kiến thức

Điểm
Câu 1

(2,0 điểm)

a. HS nêu chính xác khái niệm nhân hóa
 – Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật, … bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người
– Làm cho thế giới loài vật, cây cối , đồ vật …trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những suy nghĩ, tình cảm của con người.
 

0,25đ

0,25đ

b. Phép nhân hóa trong đoạn văn:  những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước.

– Tác dụng: Tác giả đã dùng những từ ngữ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ tính chất của cây cối làm cho cây cối bên bờ sông  trở nên sinh động gần gũi với con người.

0,5đ

0,5đ

Câu 2

(3,0 điểm)

 

a) Đoạn thơ  trên trích trong văn ” Lượm”.

Tác giả là Tố Hữu.

b)Văn bản ấy thuộc thể thơ bốn chữ.

Nêu hoàn cảnh sáng tác:

Bài thơ được Tố Hữu  sáng tác năm 1949 (0,25 điểm)

trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. (0,25 điểm)

c.  Các từ láy: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghênh nghênh (Nếu HS chỉ nêu được 2 từ hoặc 3 từ thì được 0,25 điểm)

Tác dụng  góp phần khắc họa hình ảnh chú bé Lượm – một em bé liên lạc hồn nhiên, vui tươi, say mê tham gia công tác kháng chiến thật đáng mến, đáng yêu

(HS có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhưng đúng ý vẫn cho điểm tối đa.)

0,5

0,5

0,5

0,5

0,5

0,5

Câu 3

(5,0 điểm)

 

*) Yêu cầu về hình thức: (1 điểm)
– Làm đúng kiểu bài: miêu tả- Bài làm có ba phần : Mở bài, thân bài, kết bài- Trình tự tả hợp lí, liên kết chặt chẽ, biết vận dụng phép so sánh, nhân hoá khi miêu tả.

– Biết dùng từ, đặt câu sinh động, giàu cảm xúc, đúng chính tả, đúng ngữ pháp, diễn đạt trôi chảy.

 

1.0 đ

*) Yêu cầu về nội dung: (4 điểm)
– HS có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, song cần bảo đảm các nội dung chính sau:
a) Mở bài : – Giới thiệu chung về phiên chợ quê em.( 0,5điểm)
– Địa điểm họp chợ ? Thời gian họp chợ ?
– Quang cảnh họp chợ như thế nào ?b) Thân bài: (3,0 điểm)Tả cảnh phiên chợ quê theo một thứ tự nhất định.

– Miêu tả bao quát: (1 điểm)

+ Ồn ào, đông đúc.

+ Nhiều màu sắc.

– Miêu tả cụ thể (2 điểm)  (Chú ý đến những đặc sản của chợ quê em)
+ Các dãy hàng bán trong chợ: Các mặt hàng, màu sắc, hình dáng của các loại hàng, các mùi vị đặc biệt của chợ.
+ Cảnh mua bán trong chợ: Tả một vài hàng tiêu biểu.
+ Các hoạt động khác ngoài hoạt động mua bán: Ăn uống, trò chuyện,…

c) Kết bài: (0,5 điểm)

– Cảm nghĩ, tâm trạng của em mỗi lần đến chợ.
– Tình cảm của em với chợ quê, với quê mình.

* Biểu điểm:

Điểm 5: Đảm bảo đầy đủ các yêu cầu nêu trên. Văn viết trôi chảy, giàu cảm xúc, biết vận dụng một số biện pháp tu từ đã học khi miêu tả, có sự sáng tạo, không mắc lỗi diễn đạt, trình bày sạnh đẹp.

Điểm 4: Bài viết đúng thể loại, đạt các yêu trên, còn mắc vài lỗi chính tả, diễn đạt, trình bày sạch đẹp.

– Điểm 3: Đạt được quá nửa yêu cầu về kiến thức và kĩ năng. Còn mắc một số lỗi chính tả, diễn đạt.

Điểm 1- 2: Học sinh viết đúng kiểu bài. Nội dung sơ sài, diễn đạt yếu, mắc nhiều lỗi về câu, từ, chính tả.

Điểm 0: Lạc đề, sai cả nội dung và phương pháp.

* Lưu ý: – HS có thể miêu tả theo nhiều cách khác nhau, nếu hợp lí vẫn cho điểm tối đa.

 – Giám khảo căn cứ vào tiêu chuẩn cho điểm và bài làm cụ thể của học sinh để cho điểm phù hợp, tránh đếm ý cho điểm, trân trọng những bài viết có những sáng tạo mới mẻ.

 

Em hãy tả quang cảnh một phiên chợ theo tưởng tượng của em

Bài làm

    Phiên chợ quê khác hẳn với sự ồn áo náo nhiệt của phiên chợ ở thành phố, và hôm nay tôi được về quê để được tận hưởng cái không khí thanh bình ấy. Vừa vùng ra khỏi chăn, tôi thấy mọi người trong làng đang rủ nhau đi chợ, người đi bộ, người chở hàng hóa, cảnh phiện chợ  hiện lên trong mắt tôi sao mà thân thương gần gũi.

Chợ quê tôi nằm ngay đầu làng, bên cạnh dòng sông Hồng với những dòng nước trong xanh. Ngày nào chợ cũng họp từ sớm tinh mơ khi gà chưa gáy đến khi bóng mặt trời đã xế tà, nhưng phiên chợ chính thì chỉ có vào những ngày mồng 6,10,16 20, 26, 30 hàng tháng. Vào phiên chợ chính, hàng hóa được bày bán ở đây rất đa dạng và phong phú. Từ tinh mơ, những người bán hàng đã mang hàng ra chợ bày biện hàng hóa, ai cũng mong tìm được chỗ ngồi tốt và bán được nhiều hàng. Trời sáng rõ hơn, những người đến mua đã bắt đầu đến chợ, khoảng 6h sáng chợ đã đông vui tấp nập. Từ xa nhìn lại, chúng ta đã cảm nhận được sự vui tươi đang diễn ra ở bên trong.

Ngoài hàng hóa ra, trong chợ còn có những quán bún phở, mùi vị phở thơm phức, bốc khói nghi ngút, mời gọi thực khách rẽ vào quán ăn. Phở quê tôi vừa rẻ vừa ngon khiến ai cũng muốn dừng chân để vào quán thưởng thức món ăn của quê hương. Phiên chợ quê không chỉ xuất hiện những người bán và người mua mà còn xuất hiện những em bé với những bộ quần áo xanh đó theo cha mẹ ra chợ. Em nào cũng nở nụ cười tươi trên khuôn mặt. Thấy phiên chợ đông đúc và có nhiều đồ đẹp, các em cứ chạy lung tung, hò hét thích thú.

Các bà, các mẹ, các chị đang lựa chọn để mua những mặt hàng cần thiết cho gia đình như rổ rá, chiếu gối, đồ điện. Hàng thịt cá đông nghịt người mua, những phản thịt tươi ngon, những chậu cá với những con cá to, đang bơi lội. Dạo qua một vòng khu bán hoa quả, tôi lại muốn được ăn những quả lê quả ổi chín mọng… Tôi thấy hiện lên trong tâm trí mình hình ảnh người nông dân phải một nắng hai sương để tạo ra chúng, chúng ta phải tỏ lòng biết ơn đối với những người nông dân. Không chỉ có vậy, chợ quê tôi còn có nhiều loại bánh rất ngon, bánh chưng, bánh rán, bánh nếp,…Khi nào đi chợ tôi cũng phải thưởng thức một trong những loại bánh đó, và chúng đã làm tôi nhớ mãi cái đặc trưng của phiên chợ quê tôi.

Tất cả những hàng hóa được bày bán ở đây đều mang đậm sắc hương, mùi vị của hương đồng cỏ nội được kết tinh từ hồn quê, hồn đất. Cũng có những người đi chợ không mua sắm mà họ đi ngắn, đi bình phẩm hoặc đi chơi chợ. Buổi chiều, người đến chợ thưa dần, đến cuối chiều, khi mặt trời khuất sau núi chợ mới tan.

Buổi chợ quê diễn ra thật đông vui tấp nập, nó đã cho thấy sự no ấm đủ đầy của người dân quê tôi. Tôi thấy mình thật may mắn khi được sinh ra tại vùng quê này và có cơ hội được tận hưởng cái hay cái đẹp của phiên chợ quê, tôi sẽ thường xuyên về quê hơn để được tận hưởng cảm giác  này.

Xem thêm: 

————- HẾT ————–

0