25/05/2018, 00:44

Giáo hội Công giáo Rôma

Giáo hội Công giáo (cụ thể hơn gọi là hay Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã) là một giáo hội Kitô giáo hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục Rôma, hiện nay là Giáo hoàng Benedict XVI. Giáo hội này hình thành trên cơ sở cộng đoàn Kitô hữu ...

Giáo hội Công giáo (cụ thể hơn gọi là hay Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã) là một giáo hội Kitô giáo hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục Rôma, hiện nay là Giáo hoàng Benedict XVI. Giáo hội này hình thành trên cơ sở cộng đoàn Kitô hữu nguyên thủy được Chúa Giêsu quy tụ thông qua mười hai Thánh Tông đồ, đặc biệt là Thánh Phêrô [1].

Giáo hội Công giáo là giáo hội Kitô giáo lớn nhất, đại diện cho hơn một nửa Kitô hữu và cũng là tôn giáo được tổ chức lớn và chặt chẽ hơn bất kỳ tôn giáo nào trên thế giới [2]. Theo thông tin được thống kê trên “Statistical Yearbook of the Church”, lượng giáo dân của giáo hội trên khắp thế giới ở thời điểm cuối năm 2005 là khoảng 1.114.966.000 người, xấp xỉ 1/6 dân số thế giới [3] [4].

Giáo hội Công giáo hoàn vũ được chia thành nhiều giáo phận ở nhiều quốc gia, thông thường là trên cơ sở lãnh thổ hành chính, đứng đầu mỗi giáo phận là một vị giám mục. Cuối năm 2006, số lượng giáo phận là 2.782 [5].

Thuật ngữ

Giáo hội Kitô giáo này có bề dày lịch sử và có nhiều tên để tham chiếu đến nó[6]. Chưa có sự công bố bất kỳ tên chính thức nào, tuy nhiên, theo cách nhìn của Kitô hữu thì tên gọi “Giáo hội Công giáo” hoặc “” là phổ biến [7].

Có không ít sự bất đồng về cách dùng từ không thực sự rõ nghĩa giữa “” và “Giáo hội Công giáo”, nguyên nhân là do một vài nhánh Kitô giáo khác cũng tuyên bố họ là “Công giáo” (nghĩa là tôn giáo phổ biến). Đặc biệt, Chính thống giáo Đông phương thích áp dụng thuật ngữ “” để chỉ giáo hội này nhằm phân biệt với các giáo hội Đông phương. Mặt khác, Chính thống giáo Đông phương, Giáo hội Luther, Anh giáo và các nhánh Kitô giáo khác yêu cầu viết là “Giáo hội công giáo” (lưu ý chữ “công giáo” không viết hoa) nhưng cách viết “” hiện nay vẫn được áp dụng thực tế.

Theo Từ điển tiếng Anh Oxford (bản chưa đầy đủ), “Công giáo Rôma là viết theo quy tắc tiếng Anh, nhưng “Công giáo” thì đã được sử dụng rộng rãi ở châu Âu, đặc biệt là các quốc gia hệ tiếng Latin, do đó, các nhà sử học lại thường hay tranh luận về thuật ngữ “Công giáo” và “Tin Lành”, nhưng khi liên hệ đến thói quen dùng ở châu Âu thì lại không gây sự tranh luận nào, “Công giáo” thường được thay cho “Công giáo Rôma”. Nhiều người Công giáo không thích gọi bằng thuật ngữ “Công giáo Rôma” lắm [8], khi Giáo hội này đối thoại với các phái Kitô giáo khác, họ sẽ sử dụng thuật ngữ “Giáo hội Công giáo” để chỉ chính mình, nếu gặp sự phản đối của đối phương, thì dùng “” nhưng rất hạn chế[9].

Nguồn gốc và lịch sử

Giáo hội Công giáo gắn liền với Chúa Giêsu và Mười hai Thánh Tông đồ và coi các giám mục của Giáo hội là những người kế vị các tông đồ, giáo hoàng là người kế vị Thánh Phêrô, lãnh đạo Giáo hội [10]. “Giáo hội Công giáo” là thuật ngữ đầu tiên được sử dụng bởi Thánh Ignatius Antioch (Inhaxiô) vào năm 107, [đại ý rằng]: nơi nào có Đấng Kitô ngự trị, nơi đó là Giáo hội Công giáo, như là sự tuyệt đối hóa vai trò của Giáo hội và Giáo hoàng[11]. Đồng thời, những văn sĩ Công giáo cũng liệt kê một số trích ngôn từ những thầy giảng sơ khai để củng cố luận cứ này theo ngụ ý của Tòa Thánh, trong khi các văn sĩ Chính Thống giáo lại không chấp nhận điều này vì cho rằng, vị giáo hoàng đầu tiên - Thánh Phêrô - chỉ là một chức vị đứng đầu mang tính danh dự. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc Đại Ly Giáo năm 1054, mặc dù giữa họ cũng mâu thuẫn về một số tín điều. Trung tâm học thuyết của Giáo hội Công giáo là sự kế vị liên tục các tông đồ mà giờ đây gọi là các giám mục. Giáo hội Công giáo tuyên bố tiếp tục chung thủy với sự dẫn dắt của các giám mục và bác bỏ hoàn toàn những lạc giáo.

Giáo hội Sơ khai trong bối cảnh đế quốc La Mã

Theo sử sách, các tông đồ đã đi truyền giảng ở Bắc Phi, Tiểu Á, Ả Rập, Hy Lạp và Rome để thành lập những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, năm 100, đã có hơn 40 cộng đoàn. Ngay từ thời sơ khai này, các Kitô hữu bị bắt bớ, đàn áp và hành hạ, thậm chí bị giết chết như trường hợp của Stêphanô (Stephen) (Sách Công vụ Tông đồ 7:59) và Giacôbê, con ông Dêbêđê (James) (12:2) qua bàn tay quyền lực của Đế quốc La Mã. Năm 64, dưới sự đàn áp của Hoàng đế Nero, Phêrô và Phaolô tử đạo tại Roma. Năm 96, Giáo hoàng Clement I viết lá thư đầu tiên gửi Giáo hội ở Côrintô (Corinthios), một năm sau cái chết của Thánh Gioan tại Êphêsô (Ephesios) – vị tông đồ cuối cùng - châm ngòi cho sự đàn áp Giáo hội qua tận chín đời Hoàng đế La Mã gồm cả Domitian, Decius và Diocletian.

Từ năm 150, những thầy giảng bắt đầu rao giảng thần học Kitô để củng cố lòng tin trong tín hữu. Những người này đóng vai trò như những vị linh mục ngày nay. Đáng chú ý là Ignatius Antioch, Polycarp, Justin Tử đạo, Irenaeus, Tertullian, Clement Alexandria và Origen. Công giáo được hợp pháp hóa vào thế kỷ thứ 4 khi Constantine I ban hành Sắc lệnh Milano năm 313. Constantine là nhân vật có ảnh hưởng trong Công đồng Nicaea I vào năm 325, hướng mũi tên vào phái tà giáo Aria và Nicea, khiến vai trò của ông hiện nay vẫn còn trong Giáo hội Công giáo, Chính Thống giáo, Cộng đồng Anh giáo và các giáo hội Kháng Cách. Vào năm 326, Giáo hoàng Sylvester I cung hiến Đại giáo đường Thánh Phêrô do Constantine xây dựng. Ngày 27 tháng 2 năm 380, Hoàng đế Theodosius I công nhận Công giáo là quốc giáo của Đế quốc La Mã[12]. Thời kỳ lịch này đánh dấu sự khởi đầu cho việc thiết lập nền tảng thần học và giáo luật của Giáo hội. Năm 386, Công đồng Rôma thiết lập Quy điển Thánh Kinh, ra danh sách những quyển sách được Giáo hội chấp nhận từ Cựu Ước và Tân Ước. Năm 431, Công đồng Êphêsô công khai tín điều, khẳng định Đức Giêsu mang hai bản thể: Con Thiên Chúa và con người, minh bạch hóa tín điều về Ba Ngôi.

Thời Trung Cổ

Sự suy yếu của La Mã đã tạo tiền đề thuận lợi cho Công giáo phát triển. Trong thời đại loạn lạc này, những hành động nhân đạo, cứu giúp kẻ khó khăn của các tu sĩ Công giáo nhanh chóng được nhân dân ủng hộ và đi theo. Đặc biệt, năm 452, Giáo hoàng Lêô Cả gặp gỡ Attila Hun để khuyên can ý định tôn tính thành Roma. Năm 476, Romulus Augustus - Hoàng đế La Mã cuối cùng - bị truất phế, theo sau là sự sụp đổ của Đế quốc La Mã ở phương tây, Giáo hội bước vào thời kỳ truyền giáo lâu dài cho dân ngoại. Người Công giáo phát triển rồi hòa trộn vào trong cộng đồng người Đức (cạnh tranh với giáo phái Aria), người Celt, người Slav, người Viking, người Scandinavia, Hungary, Baltic và Phần Lan. Sự xuất hiện của Hồi giáo năm 630 đã lấy những phần đất ở Bắc Phi thuộc Tây Ban Nha ra khỏi sự kiểm soát của Công giáo. Năm 480, Thánh Benedict (Biển Đức) thiết lập hệ thống luật lệ cho việc ra đời các dòng tu. Các dòng tu Công giáo phát triển mạnh mẽ ở châu Âu vào thế kỷ thứ 9, nhất là ở Ireland, Scotland thời Phục Hưng. Thời Trung Cổ mang đến những biến đổi cơ bản bên trong Giáo hội. Giáo hoàng Gregory Cả cải cách đáng kể cơ cấu quản trị của Giáo hội. Đầu thế kỷ thứ 8, sự bài trừ thánh tượng là vấn đề gây sự chia rẽ giữa Giáo hội với xã hội khi nó được Hoàng đế Byzantine hậu thuẫn. Giáo hoàng thách thức sức mạnh của đế quốc khi tiếp tục bảo vệ các thánh tượng.

Thượng Trung Cổ

Đầu thế kỷ thứ 10, các dòng tu phương tây lan rộng khắp nơi, dẫn đầu là Dòng Biển Đức. Đầu thế kỷ 11, các trường dòng phát triển thành các viện đại học (Đại học Paris, Oxford, Bologna…) mà trước đây chỉ dạy thần học, sau này dạy cả y học, luật pháp, triết học để rồi trở thành nền tảng cho giáo dục hiện đại của phương tây. Sự xuất hiện của Dòng Phanxicô và Dòng Đa Minh do Thánh Phanxicô và Thánh Đa Minh thành lập đã có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát triển của các đại học lớn ở châu Âu. Thời kỳ này, các công trình kiến trúc của Giáo hội đạt đến những tầm cao mới, cực điểm là phong cách kiến trúc Roman, Gothic trong các đại giáo đường ở châu Âu.

Tại Công đồng Clermont, Giáo hoàng Urban II đưa ra những bước chuẩn bị cho cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên. Từ năm 1095, thời Giáo hoàng Urban II, những cuộc Thập Tư Chinh bùng phát. Đó là hàng loạt chiến dịch quân sự tại khu vực Đất Thánh (Jerusalem) và những nơi khác như một nỗ lực chống lại sự bành trướng của Thổ Nhĩ Kỳ đại diện cho Hồi giáo. Bên cạnh lý do đó, là một ẩn ý của tham vọng bành trướng ngược lại bằng cách xâm lăng đất đai của người Hồi giáo. Trong giai đoạn này, Kitô giáo đã bị các thế lực phong kiến và thậm chí là các giáo hoàng đương thời lợi dụng và diễn dịch theo nghĩa phục vụ cho cuộc chiến của họ. Điều đó cuối cùng đã trở thành một trong các nguyên nhân biến Thập Tự Chinh trở thành một trong những vết nhơ khủng khiếp nhất của lịch sử Kitô giáo.

Trong suốt những cuộc viễn chinh, những đoàn quân Thập Tự đã thẳng tay tàn sát, cướp bóc, thậm chí cá biệt có nơi còn ăn thịt người Hồi giáo, hoặc cổ động cả trẻ em vào cuộc chiến, dẫn đến việc hàng ngàn em bị bắt bán làm nô lệ. Cuối cùng, những cuộc Thập Tự Chinh cũng không bóp ngạt được sự xâm lăng của Hồi giáo mà thậm chí lại góp phần làm sụp đổ và chiếm đóng của Constantine trong cuộc Thập Tư Chinh thứ tư. Bắt đầu khoảng năm 1184, là những cuộc giao chiến với tà giáo Cathar nhằm giữ an toàn cho sự đồng nhất trong học thuyết Công giáo, bài trừ dị giáo.

Đại Ly Giáo

Qua một thời kỳ từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 14, Giáo hội Công giáo nguyên thủy dần dần bị phân tách thành hai nhánh: Tây phương (Latinh), thường được gọi là Giáo hội Công giáo, và Đông phương (Hy Lạp), sau này trở thành Chính Thống giáo. Hai giáo hội này bất đồng quan điểm về cách tổ chức, nghi thức và những học thuyết mà đặc biệt là địa vị của Giáo hoàng[13]. Công đồng Lyon II (1274) và Công đồng Firenze (1439) thử tìm cách hiệp thông lại hai giáo hội nhưng tất cả đều bị Chính Thống giáo khước từ. Vài giáo hội Đông phương sau này hiệp thông lại với , tuyên bố không bao giờ thoát ly khỏi giáo hoàng. Tuy nhiên, hai nhánh giáo hội chủ chốt vẫn phân ly cho đến ngày nay mặc dù đã hóa giải việc rút phép thông công lẫn nhau giữa Rôma và Constantine vào năm 1965.

Cải cách Kháng Cách

Thời kỳ Phục Hưng thế kỷ 15 có một sự kiện đáng quan tâm trong cổ điển học đó là sự xét lại về học thuyết và đức tin của Công giáo. Năm 1492, Christopher Columbus khám phá ra châu Mỹ dẫn đến làn sóng truyền giáo tích cực của Công giáo Rôma tại khắp lục địa này. Giáo hoàng Alexander VI trao “sứ mệnh” truyền giáo tại vùng đất mới khám phá cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.

Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Martin Luther đưa ra những bài luận văn mang nội dung bài trừ những học thuyết của Công giáo đương thời. Những bài tương tự được phát ra với những chi tiết căn bản thậm chí vượt bậc hơn cả những gì Công giáo thuyết giảng. Họ chĩa mũi nhọn vào Công đồng Trent, bản chất của Kháng Cách - như tên gọi của nó - là đòi hỏi khôi phục những học thuyết và cách thực hành Công giáo truyền thống. Công đồng Trent sàng lọc và định nghĩa lại các học thuyết, ban bố các giáo điều.

Năm 1534, Nghị viện Anh thông qua quyền tối cao của Vua nước Anh đối với Giáo hội Anh như là cách để tuyên bố ly khai khỏi Giáo hội. Từ năm 1536, nhiều nhà dòng Công giáo tại xứ Anh, xứ Wales và Ireland bị giải thể. Giáo hoàng Phaolô III rút phép thông công đối với Vua Henry III vào năm 1538, như vậy Anh giáo chính thức phân ly khỏi Công giáo.

Sự lan rộng khắp thế giới của Công giáo song hành cùng chủ nghĩa thực dân châu Âu vươn đến châu Mỹ, châu Á, châu Phi và châu Đại Dương.

Hậu Trung Cổ, Phục Hưng

Trong năm 1521, nhà thám hiểm Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan thực hiện chuyến đi truyền giáo đầu tiên đến Philippines. Những năm sau, các giáo sĩ Dòng Anh em Hèn mọn đặt chân đến Mexico, xây dựng trường học, mô hình trang trại và các bệnh viện. Hơn 150 năm tiếp theo, sứ vụ được mở rộng sang tây nam Bắc Mỹ. Người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha theo nhà sáng lập Dòng Tên Phanxicô Xaviê đến Ấn Độ và Nhật Bản. Cuối thế kỷ 16, hàng chục ngàn người Nhật theo đạo Công giáo. Giáo hội tại Nhật Bản phát triển và bị gián đoạn và đàn áp vào năm 1597, dưới thời Shogun (Tướng quân) Tokugawa Iemitsu. Iemitsu là vị Tướng quân có nỗ lực cô lập quốc gia khỏi ảnh hưởng từ ngoại bang.

Hiện đại

Thế kỷ 18 và 19, Giáo hội phải đối mặt với làn sóng truyền giáo mạnh mẽ của Tin Lành, Chủ nghĩa Khai Sáng và Chủ nghĩa Canh Tân. Chủ nghĩa Vô thần và bài trừ tôn giáo được đẩy mạnh lan rộng khiến giáo hội phải tự vận động để thích nghi với hoàn cảnh và chức năng. Nhiều thành phần của giáo hội trên thế giới bị đàn áp, công tác mục vụ bị gây cản trở, giáo dục, y tế vốn có của giáo hội bị chính phủ kiểm soát.

Công đồng Vatican II

Thời Công đồng Vatican II (1962-1965) do Giáo hoàng Gioan XXIII triệu tập, Giáo hội Công giáo trải qua một quá trình cải cách toàn diện. Công đồng nhấn mạnh phải nhìn thấy rõ vai trò của Giáo hội Công giáo trong cộng đồng Kitô hữu tin Chúa Giêsu và trong các tôn giáo khác. Công đồng được coi là mở ra thời kỳ lịch sử của Giáo hội Công giáo hiện đại. Công đồng phát hành nhiều tài liệu về tình trạng Giáo hội, sứ mạng các hội đoàn và tự do tôn giáo. Ngoài ra còn ban hành những phương hướng thích nghi dành cho các nghi lễ, trong đó cho phép sử dụng tiếng bản xứ thay vì phải dùng tiếng Latin trong phụng vụ.

Đương đại

Thành viên giáo hội trong năm 2007 là 1,147 tỷ người[15] (năm 1950 là 437 triệu và năm 1970 con số 654 triệu người[16]). Đây là giáo hội lớn nhất của Kitô giáo, bao gồm hơn nửa Kitô hữu. Mặc dù số lượng người thực hành nghi thức Công giáo trên toàn thế giới chưa được thống kê hết, nhưng đặc biệt phát triển ở châu Phi và châu Á.

Với số lượng lớn người trưởng thành được rửa tội, giáo hội tăng trưởng nhanh hơn ở châu Phi hơn bất cứ nơi nào khác[17]. Trong những năm gần đây, một vài nơi ở châu Âu và châu Mỹ thiếu thốn linh mục, số lượng linh mục không tăng theo tỷ lệ số lượng giáo dân. Chủ nghĩa thế tục tăng ổn định ở châu Âu, nhưng sự hiện diện của Công Giáo vẫn còn mạnh nơi đây[18].

Giáo hội tại châu Á chiếm thiểu số giữa các tôn giáo khác, bao gồm chỉ khoảng 3% dân số châu Á, nhưng tại đây lại chiếm một tỷ lệ lớn nữ tu, linh mục[18]. Từ 1975 đến 2000, dân số châu Á tăng 61% nhưng giáo dân Công giáo ở châu Á tăng 104%[19]. Tuy nhiên, giáo hội phải đối mặt với những thử thách trong truyền giáo như bị đàn áp tại các quốc gia như Bắc Triều Tiên và Trung Quốc[20]. Châu Đại Dương cũng là nơi truyền giáo khó khăn cho các giáo phái Kitô giáo bởi nơi đây có các nhóm dân tộc với hơn 715 ngôn ngữ khác nhau. Trong giáo hội Công giáo trên toàn thế giới, 12% cư ngụ ở châu Phi, 50% ở châu Mỹ, 10% ở châu Á, 27% ở châu Âu và 1 % ở châu Đại Dương[18].

Đức tin

Đức tin Công giáo được tóm lược trong Tín điều Nicea và thể hiện chi tiết trong từng việc phụng vụ. Các Tìn điều Nicea là cơ sở đức tín của các giáo phái Kitô giáo khác. Chinh Thống giáo Đông phương cũng có niềm tin tương tự như Công giáo, chỉ khác nhau cơ bản về vị trí, vai trò của chức giáo hoàng và khái niệm "đồng trinh" của Maria. Các giáo hội Tin Lành cũng có những khác biệt về đức tin với Công giáo, nhưng nói chung sự khác biệt chủ yếu là: vấn đề giáo hoàng, giáo hội truyền thống, các Bí tích và các vấn đề liên quan đến sự cứu rỗi.

Thánh Kinh và Thánh Truyền

Những lời giảng dạy của Giáo hội Công giáo là những điều được trích dẫn ra từ hai nguồn: Thánh Kinh và Thánh Truyền. Cả hai đều được giải thích và điều khiển bởi Magisterium của Giáo hội. Danh sách và nội dung chính thức về các sách thánh kinh được Giáo hội Công giáo chấp nhận là những bản Thánh Kinh viết bằng tiếng Latin hồi thế kỷ thứ 4.

Năm 1943, trong bức thông điệp “Divino Afflante Spiritu” của ông, Giáo hoàng Piô XII đã khuyến khích những học giả Thánh Kinh hãy cần mẫn nghiên cứu về ngôn ngữ nguyên bản của các sách Thánh Kinh (tiếng Do Thái, Hy Lạp, Aram trong Cựu Ước và tiếng Hy Lạp trong Tân Ước) và những ngôn ngữ chung nguồn gốc khác để hiểu biết sâu rộng và đầy đủ hơn về những văn bản này, và cho rằng: ”văn bản nguyên bản… được viết bằng ơn linh hứng của tác giả thì có thẩm quyền và giá trị hơn bất kỳ bản nào, thậm chí cả những bản đã được dịch rất hoàn hảo, dù đó là cổ xưa hay hiện đại”[21]. Thánh Truyền (hiểu sát nghĩa là những truyền thống thánh thiện) không giống như truyền thống của loài người nhưng được hiểu là cuộc sống của Giáo hội sơ khai được trải nghiệm qua lời dạy của Đấng Kitô. Nguồn gốc Thánh Truyền thì rất đa dạng và những giảng dạy của Giáo hội ngày nay thường là được truyền khẩu từ các tông đồ. Nhiều ghi chép của các cha đạo sơ khai đã phản ánh được Thánh Truyền.

Thiên Chúa

Tín hữu Công giáo tin rằng Thiên Chúa là duy nhất, vĩnh hằng, thượng quyền, thông suốt tất cả, công chính hoàn toàn và hiện diện mọi nơi. Tín hữu Công giáo tin thuyết Ba Ngôi: Thiên Chúa là tự nhiên mà có, bản thể và hiện thân là một Chúa nhưng lại tồn tại trong ba ngôi vị (tam vị nhất thể), từng ngôi vị đồng nhất với bản thể, không ngôi vị nào hơn ngôi vị nào và chỉ phân biệt về quan hệ giữa ba ngôi vị: giữa Chúa Cha và Chúa Con, giữa hai ngôi vị này với Chúa Thánh Thần, thành một Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa hiện hữu từ trước khi ngài sáng tạo mọi vật mọi loài thụ tạo. Theo Tín điều Nicea, Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc cho thụ tạo của mình, ngài trực tiếp tham gia vào thế giới và cuộc sống của con người, mong muốn con người kính thờ ngài và yêu thương đồng loại. Công giáo còn tin rằng, con người là loài thụ tạo có thân xác (hữu hình) và linh hồn (vô hình) gắn bó mật thiết với nhau. Bên cạnh đó, còn có thụ tạo vô hình khác là thiên thần, làm nhiệm vụ tôn thờ và phục vụ Thiên Chúa. Một số thiên thần đã chọn chống lại Thiên Chúa, trở thành ma quỷ, và tìm cách gây hại cho nhân loại. Trong số đó, lãnh đạo thiên thần nổi loạn gọi là "Lucifer" hay "Satan".

Cuộc sống của nhân loại phụ thuộc ở nơi ngài, nhưng vẫn có mối liên hệ mật thiết với công trình sáng tạo của ngài[22]. Công đồng Vatican I dạy rằng, ngay trong buổi bình minh của tự nhiên, lý trí con người đã có thể nhận biết công việc của Thiên Chúa sáng tạo, từ lúc khởi nguyên đến cùng đích cũng vậy. “Thưở xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt người làm đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” (Thư gửi tín hữu Do Thái 1:1-2)

Giáo hội Công giáo tin rằng Thiên Chúa chỉ hé mở với loài người về ngài qua người con duy nhất: “Không ai biết Con ngoài Cha, cũng như không ai biết Cha ngoài Con và những người mà Con chọn để mặc khải cho” [23] và người con duy nhất đó của ngài là hiện thân của Đấng Giêsu Kitô, người được sinh ra bởi Trinh nữ Maria, vừa mang bản tính Thiên Chúa vừa mang bản tính loài người. Bằng cuộc đời và tiếng nói của mình, Giêsu đã dạy mọi người cung cách sống, giới thiệu về Tình yêu Thiên Chúa và ban tặng hồng ân và vinh quang cho những ai tin mình. Sau cuộc tử nạn và phục sinh của Giêsu, đi đầu là các tông đồ, những người theo và tin Giêsu đã loan truyền đức tin của họ cách mạnh mẽ trong sự hiện diện của Chúa Thánh Thần qua lời nhắn nhủ của Giêsu.

Theo Công giáo, “mầu nhiệm” là những điều huyền bí về Thiên Chúa mà tài trí con người không thể hiểu và giải thích được nhưng tin đó là chân lý. Tóm lại, tín hữu Công giáo có thể tuyên xưng đức tin qua câu nói: “Có ba mầu nhiệm chính trong Đạo: Thứ nhất là Mầu nhiệm Thiên Chúa Ban Ngôi, thứ hai là Mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người, thứ ba là Mầu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc”.

Tội nguyên tổ

Trong đức tin của người Công giáo, loài người trước đây được Thiên Chúa sáng tạo ra để hiệp thông với ngài nhưng vì không vâng lời Thiên Chúa khi ăn trái của cây biết điều thiện điều ác (trái cấm), Adam và Eve - tổ tiên loài người – đã làm mối quan hệ đó bị đổ vỡ khiến tội lỗi và sự chết lan tràn khắp thế giới[24]. Vấp ngã này của con người được gọi là tội nguyên tổ (hay tội tổ tông). Từ đây, con người đánh mất đi tình trạng nguyên thủy của mình là được hiệp thông với Thiên Chúa, bị đưa vào tình trạng của sự chết nhưng qua ý tưởng con người có một linh hồn bất tử. Khi Giêsu đến với thế giới, giữa Thiên Chúa và loài người đã có sự hòa giải qua hiến tế bằng cái chết và sự sống lại của Giêsu, một lần nữa con người lấy lại được sự hiệp thông và dự phần vào vinh quang Thiên Chúa.

Giáo hội

Giáo hội là “thân thể Chúa Kitô” [25] mà ngài là “đầu” và Công giáo dạy rằng đó là một thân thể được hiệp nhất bởi những người tin Chúa cả trên thiên đàng và trên địa cầu này.

Cứu rỗi

Giáo hội dạy rằng Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người sự cứu rỗi để hướng tới một cuộc sống vĩnh hằng và ngài coi đó như là một hồng ân, một vinh quang qua sự hiến tế của Đấng Kitô. “Với những nỗ lực để tỏ tường về Thiên Chúa, chẳng có câu trả lời chính xác nào hay tài trí nào của con người làm được. Giữa Thiên Chúa và chúng ta có một sự khác biệt vô tận khiến chúng ta phải thừa nhận về ngài, Thiên Chúa chúng ta”[26]. Thiên Chúa là đấng bào chữa, là đấng giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Hoặc là chúng ta đón nhận hồng ân này Thiên Chúa ban cho ta thông qua đức tin vào Giêsu Kitô và phép rửa tội[27] hoặc là khước từ nó. “Đức tin không hành động là đức tin chết”.

Giáo hội còn dạy rằng con người cần phải được thánh tẩy ngay từ lúc này, ngay trong thực tại này (tức cuộc sống trần thế) vì khi chết đi không thể làm gì hơn được nữa. Thánh tẩy là khi nhận Phép rửa và nó bị mất đi khi linh hồn phạm tội chết (tội trọng). Tội trọng là sự cố ý vượt quá giới luật của Thiên Chúa cách nghiêm trọng. Nhưng con người có thể lại được sự thánh tẩy khi người ấy thành thật thú nhận trong Bí tích Hòa giải. Nếu ai đó biết sám hối tội lỗi của họ trước khi chết mà không thể thông qua Bí tích Hòa giải được vì lí do khách quan nào đó thì với lời khẩn cầu, tội của họ cũng tự nhiên được tha thứ.

Qua hiến tế của Giêsu bằng cái chết trên thập giá, sự cứu rỗi thậm chí còn được ban ra bên ngoài ranh giới của Giáo hội, nghĩa là phổ biến cho mọi người. Do đó, các Kitô hữu lẫn dân ngoại, nếu ai nhiệt thành đáp lại chân lý này thì Thiên Chúa sẽ bày tỏ lòng xót thương của ngài đối với họ. Điều này đôi khi là một trách nhiệm để trở thành thành viên của Giáo hội.

Phép rửa là một nghi thức quan trọng của người Kitô hữu, qua lăng kính của Giáo hội Công giáo, nó được nâng lên hàng bí tích. Phép rửa không chỉ làm thanh tẩy tội lỗi của một người nào đó, nó cũng làm cho họ trở thành “con cái Thiên Chúa và được dự phần với ngài”, trả lại cho con người trạng thái nguyên bản mà đã được hình thành giống như hình ảnh của Thiên Chúa. Phép rửa còn là cầu nối giữa người nào đó với đời sống cộng đoàn Giáo hội. Bởi vậy, khi chịu phép rửa trong Giáo hội, là thân thể Đức Kitô, người ta cũng sẻ chia cuộc khổ nạn và phục sinh với ngài. Sự cứu rỗi là phổ biến cho tất cả mà không loại trừ ai. Công giáo tin rằng Thiên Chúa không nỡ từ chối một khẩn cầu cứu rỗi của ai đó bên ngoài Giáo hội. Điều này là một trong những quan điểm bất đồng lớn giữa Công giáo và Kháng cách.

Đời sống Giáo hội

Người Công giáo phải nỗ lực để trở thành môn đệ thực sự của Giêsu. Họ mong đợi tìm kiếm được sự tha thứ cho những tội lỗi của mình qua tấm gương và lời giảng dạy của Giêsu. Họ tin rằng thông qua Giêsu, Thiên Chúa đã ban Bảy phép bí tích cho mình như nhưng công cụ để trợ giúp họ thực hiện được điều này.

Nếu một ai đó chết mà không biết ăn năn về những trọng tội của mình, người đó đã đánh mất đi lời hứa cứu rỗi của Thiên Chúa dành cho họ và họ phải đi vào Hỏa ngục. Tuy nhiên, nếu người ấy thành thật sám hối tội lỗi ngay thời điểm gần kề cái chết, thì họ chỉ phải trải qua tình trạng thanh luyện, gọi là Luyện ngục, và dần dần được vào Thiên đàng.

Người Công giáo tin rằng Thiên Chúa luôn luôn tác động giữa loài người trên thế giới này. Người Công giáo được “nên thánh” là nhờ các phép bí tích của Giáo hội và qua cả những lời cầu nguyện, những công việc phúc đức, hành hương và ăn chay hãm mình. Cầu nguyện cho người khác, thậm chí cho kẻ thù và những người ngược đãi mình là một nhiệm vụ của Kitô hữu [28]. Người Công giáo cho rằng có bốn mục đích cầu nguyện: tôn thờ, tạ ơn, ăn năn và khẩn cầu. Người Công giáo cũng có thể cầu nguyện với Thiên Chúa xin tha tội cho những ai đã chết (cầu cho các linh hồn), và đặc biệt là họ cũng có thể cầu nguyện với Trinh nữ Maria - mẹ Thiên Chúa - và các thánh nữa.

Cuộc sống con người

Giáo hội Công giáo khẳng định không một ai có quyền xâm phạm đến cuộc sống của mình hay của người khác với quan niệm về cái chết tự nhiên. Giáo hội tin rằng mỗi một người được dựng nên là “giống với hình ảnh của Thiên Chúa” và cuộc sống của con người là thánh thiện và cao đẹp, không thể đem so sánh với những giá trị nào khác. Bởi vậy, Giáo hội phản đối những hoạt động mà họ cho rằng làm huỷ hoại giá trị cuộc sống thiêng liêng kể cả việc phá thai, tránh thai, nhân bản người, bản án tử hình, chết cách nhẹ nhàng, giết người, tự tử, sinh sản vô tính, diệt chủng và chiến tranh. Bản án tử hình, tuy không bị Giáo hội chính thức kết tội nhưng càng ngày nó càng bị các nhà thần học và lãnh đạo giáo hội chỉ trích. Theo Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bản án tử hình không nên áp dụng trong mọi trường hợp trừ những trường hợp nó cần thiết cho việc bảo vệ trật tự xã hội (có thể thấy điều này ở hầu hết các quốc gia phát triển).

Vấn đề giới tính

Giáo hội Công giáo dạy rằng cuộc sống con người cùng với bản năng tình dục là không thể tách rời và mang tính thiêng liêng, những quan niệm cho rằng chỉ linh hồn là thánh thiện còn xác thịt là tội lỗi thì bị coi là tà giáo. Giáo hội không cho rằng tình dục là tội lỗi hoặc làm suy giảm sự thánh thiện (tức cuộc sống nhục dục).

Thực hành

Trong Giáo hội Công giáo có sự phân biệt giữa nghi thức phụng vụ (hình thức chung và phổ biến của Giáo hội) với việc cầu nguyện cá nhân hoặc thực hành sống đạo. Các nghi thức phụng vụ đều do Giáo hội quy định, gồm có Thánh Thể, Bí Tích và Các Giờ Kinh Phụng vụ. Tất cả tín hữu Công giáo được Giáo hội mời gọi tham dự vào các nghi thức phụng này nhưng việc cầu nguyện và sống đạo là vấn đề cá nhân, không ai có thể can thiệp vào ai.

Nghi thức Phụng vụ

Nghi thức căn bản và phồ biến của đời sống Giáo hội Công giáo là phụng vụ. Công đồng Vatican II nói rằng: “…thông qua phụng vụ mà công cuộc cứu chuộc chúng ta được hoàn tất...”

Thánh Thể

Tín hữu Công giáo coi Thánh Thể là trọng tâm cũng như đỉnh cao của đời sống Kitô hữu và tin rằng bánh không men cùng với rượu nho nơi bàn thờ, qua quyền phép của Chúa Thánh Thần thật sự trở nên Mình và Máu Đấng Kitô. Thánh lễ là sự tái hiện lại cuộc hiến tế của Đấng Kitô nơi thập giá.

Các Bí tích

Giáo hội Công giáo dạy rằng: các bí tích là những dấu hiệu thiêng liêng do Đấng Kitô lập ra và giao phó cho Giáo hội để ban lại cho chúng ta. Chúng mang lại hiệu quả thánh thiện cho những ai thực tâm đón nhận chúng. Toàn bộ đời sống phụng vụ của Giáo hội xoay quanh việc cử hành Thánh lễ và các bí tích. Có bảy Bí tích được Giáo hội công nhận là: Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể, Hòa giải, Truyền chức thánh, Xức dầu thánh và Hôn phối.

Các Giờ Kinh Phụng vụ

Các Giờ Kinh Phụng vụ là những hoạt động sùng bái của các tín hữu ngoan đạo, đơn giản nhất là việc cầu nguyện vào buổi sáng và buổi tối, hình thức khác là một mình hay tụ họp lại để đọc Thánh Kinh và suy niệm.

Sống đạo và cầu nguyện

Ngoài nghi thức phụng vụ ra, Giáo hội còn có một sự đa dạng về thực hành sống đạo mà cầu nguyện là hình thức rất được khuyến khích vì nó được coi là sự vận động để phát triển đời sống thiêng liêng của tín hữu, thắt chặt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Việc sống đạo rất được Giáo hội khuyến khích. Chúng có thể là việc tôn kính thánh tượng, viếng nhà thờ, đi hành hương, rước kiệu, Đàng Thánh Giá, Chầu Thánh Thể và đọc Kinh Mân Côi.

Bản chất và sứ mệnh

Giáo hội là “Dân Thánh của Thiên Chúa”, là “Đền thờ Chúa Thánh Thần”, là “Thân thể Đấng Kitô”. Đó là mối quan hệ giữa các thành viên với nhau, giữa cộng đồng này với những cộng đồng khác và với Thiên Chúa. Công đồng Vatican II xác nhận rằng bản chất của Giáo hội là một mầu nhiệm. Là Thân thể Đấng Kitô, mỗi thành viên được trao ban một sứ mệnh riêng và tham gia vào công việc chung trong Giáo hội nhưng căn bản là phải rao giảng Tin Mừng đến với tất cả mọi người qua việc sống chứng nhân.

Hàng Giáo phẩm

Giáo hội Công giáo có tổ chức phân cấp, mỗi cấp có người trị sự được Giáo hội chỉ định với ba chức thánh sau: giám mục, linh mục và phó tế. Ngoài ra còn có các thừa tác viên.

Giám mục

Giám mục là những mục tử kế vị các thánh Tông đồ, các vị này có đầy đủ quyền năng và uy phong như nhau, kể cả Giáo Hoàng. Nhưng vì Giáo Hoàng là vị Tông đồ "trưởng"-là vị thủ lãnh các Tông đồ nên có quyền quyết định cao hơn mà thôi. Giám mục là người đứng đầu các linh mục đoàn, tương đương với cấp hành chính quận, huyện hoặc vùng của chính quyền. Các giám mục được quyền bổ nhiệm linh mục cũng như Phó tế, cử hành bí tích truyền chức hai tín chức này cũng như trao quyền cho linh mục cử hành một số bí tích khác.

Linh mục

Linh mục là những người phụ tá theo đúng nghĩa của các Giám mục. Các linh mục phải tuân thủ hoàn toàn theo luật độc thân, tiết dục và khó nghèo.Linh mục công giáo luôn luôn là nam, và chưa hề có tiền lệ là phụ nữ. Các linh mục được làm Thánh lễ cũng như các bí tích khác khi có chuẩn y của Giám mục. Linh mục cai quản một "xứ"- tương đương một xã, phường. Khi hội đủ những điều kiện cần và đủ mọi linh mục có thể được phong Giám mục

Thừa tác viên

Từ Công đồng Vatican II, Giáo hội cho phép những người trưởng thành dù đã kết hôn được phong chức thừa tác viên vĩnh viễn với phương châm “phục vụ chứ không đợi được phục vụ”. Họ có thể đảm nhận vai trò đọc Phúc âm, dạy giáo lý, phụ tá rửa tội, dẫn dắt phụng vụ, làm chứng hôn phối, hướng dẫn nghi thức tang lễ.

Hội đoàn

Tất cả thành viên của Giáo hội Công giáo khi đã được Rửa tội thì được gọi là Kitô hữu, có đầy đủ phẩm giá, được kêu gọi trở nên thánh và đóng góp xây dựng Giáo hội. Mọi người cũng được kêu gọi để chia sẻ bổn phận làm thừa tác, tiên tri và vương đế của Đấng Kitô. Số ít trong số Kitô hữu thực hiện vai trò liên quan đến mục tử (giáo phẩm) và sống chứng nhân (tu trì) nhưng phần lớn là phải thực hiện ba bổn phận nói trên.

Đời sống Thánh hiến

Đời sống Thánh hiến của Giáo hội thể hiện qua việc người nam hay người nữ hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa với những ràng buộc được Giáo hội công nhận (đi tu). Họ không thuộc Hàng Giáo Phẩm (trừ khi người nam được thụ phong thành linh mục), phần lớn là thành viên của các hội đoàn. Giáo hội Công giáo cũng ghi nhận những hình thức khác nhau về Đời sống Thánh hiến như: các giáo đoàn, ẩn tu, nữ tu, hoạt động tông đồ… Phần lớn hình thức của Đời sống Thánh hiến hiện hữu là yêu cầu các thành viên hiến dâng bản thân họ cho Thiên Chúa thông qua việc dự tu được định đoạt bởi một lời khấn (thề), sống tuân thủ ba tinh thần của Phúc Âm là trong sạch, khó nghèo và vâng lời. Ngày nay, những ai có “ơn gọi” theo Đấng Kitô muốn thánh hiến bản thân cho Thiên Chúa thì có những đòi hỏi cao hơn khi họ phải sống trong các Tu viện, chịu sự quản lý của “bề trên”, họ phải sống theo từng cộng đoàn, thỉnh thoàng cho phép sống riêng lẻ trong thời gian ngắn, một số được phép đến những nơi khác để phục vụ (trong một giáo xứ chẳng hạn).

Phong trào, Đoàn thể và Tổ chức bên trong Giáo hội

Nhiều Phong trào, Đoàn thể và Tổ chức hoạt động trong lòng Giáo hội Công giáo và chúng thường gồm những nhóm người có “đức tin đặc biệt”, hoạt động theo mục tiêu và phương hướng của người sáng lập hoặc người khai tâm và đặc biệt là phù hợp với Giáo huấn và Giáo luật. Có những Phong trào, Đoàn thể, Tổ chức Công giáo được phân cấp và hoạt động gắn chặt với thẩm quyền giám mục hay linh mục địa phương. Nói chung, những Phong trào, Đoàn thể, Tổ chức Công giáo đã tỏ ra tính đại chúng của mình và phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới.

Gia nhập Công giáo

Theo Giáo luật, một người được trở thành thành viên của Giáo hội Công giáo khi người đó lãnh nhận Phép rửa trong Giáo hội Công giáo. Trường hợp tín hưu nào đó đã bỏ đạo Công giáo nay muốn gia nhập lại thì phải tuyên xưng lại đức tin Công giáo và Giải tội.

Phân bố trên thế giới

Số giáo dân Công giáo trên khắp thế giới khoảng 1,1 tỷ người[29] và vẫn đang có xu hướng tăng thêm, đặc biệt là tại châu Phi và châu Á. Brasil hiện là quốc gia có số lượng giáo dân Công giáo đông nhất. Phần lớn những quốc gia công nghiệp phát triển đều có sự hiện diện của Giáo hội, tuy có giảm vào cuối thế kỷ 19. Tại châu Âu, các quốc gia hệ tiếng Latin là cái nôi lịch sử của Công giáo, các quốc gia hệ tiếng gốc Đức là Tin Lành và các quốc gia hệ tiếng Slav là sự pha trộn giữa Công giáo và Chính thống, mặc dù cũng có những ngoại lệ. Phần còn lại của Công giáo trên thế giới là do nỗ lực truyền giáo của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp, bên cạnh đó còn do việc di cư từ những quốc gia này đi khắp châu Âu. Tại Mỹ Latin - nơi từng được độc quyền - Công giáo đang chịu sự cạnh tranh ngày càng tăng của Kháng Cách đặc biệt là Trung Mỹ và khu vực Caribbean. Tại châu Phi, Công giáo hoạt động mạnh mẽ nhất ở trung tâm lục địa; trong khi ở châu Á, chí có hai quốc gia có tỷ lệ lớn người Công giáo trong dân số là Philippines và Đông Timo. Việt Nam tuy không phải là quốc gia có tỷ lệ người Công giáo cao nhưng có số lượng giáo dân đứng thứ hai ở châu Á, sau Philippines[30].

Vai trò trong nền văn minh nhân loại

Thuyết sáng tạo

Mở đầu Kinh Thánh (phần đầu của Cựu Ước), sách Sáng thế ký viết rằng vũ trụ và vạn vật được thiên chúa tạo dựng bằng Lời phán. Con người là Adam và Eva được thiên chúa nặn ra từ bụi đất. Toàn bộ quá trình sáng tạo vũ trụ và loài người của thiên chúa được thực hiện trong 6 ngày. Đây là thuyết sáng tạo của thiên chúa giáo, hay nói cách

0