Đức Thánh Gióng
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Thánh Gióng biểu đạt cho sức mạnh to lớn của sự chiến đấu chống ngoại xâm của cộng đồng để bảo vệ cuộc sống chung. Tuy nhiên, trong đời sống mỗi dân tộc, không phải lúc nào cũng có nạn ngoại xâm. Chiến tranh tự vệ chẳng qua chỉ là hành động bất đắc ...
Trong tâm thức dân gian của người Việt, Thánh Gióng biểu đạt cho sức mạnh to lớn của sự chiến đấu chống ngoại xâm của cộng đồng để bảo vệ cuộc sống chung.
Tuy nhiên, trong đời sống mỗi dân tộc, không phải lúc nào cũng có nạn ngoại xâm. Chiến tranh tự vệ chẳng qua chỉ là hành động bất đắc dĩ của dân tộc đó. Còn bình thường, mọi thành viên sẽ phải chăm lo sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mình. Nguy cơ xâm lược, do vậy, chỉ còn ở thế tiềm ẩn. Và để đối phó với nó, khả năng tự vệ của dân tộc, vì thế, sẽ luôn luôn ở thế tiềm ẩn.
Đó là những điều có thể rút ra ra hình tượng Thánh Gióng, từ cậu bé lên ba không biết nói cười, bỗng chốc lớn lên thành dũng tướng, cầm roi sắt phi ngựa sắt, phá tan quân giặc.
Khi giặc hết, Thánh Gióng liền bay thẳng vể trời, không màng đến công danh phú quý, như thế tục sau này ...
Đấy cũng chính là bài học lịch sử, là mẫu mực đầu tiên, mà ngay từ thời tiền sử, trí tuệ dân tộc đã tổng kết lại cho các thế hệ con cháu về sau.
Thánh Gióng đã và sống mãi trong tâm thức dân gian, như một vị Thánh bất tử, chính vì những lẽ ấy.
Nước Văn Lang, kể từ Hùng Vương thứ nhất trị vì, trãi qua năm đời nữa, tuy dần dần dã trở thành một nước giàu mạnh, nhưng với nhà Ân bên Tàu, vẫn phải giữ thế thần phục.
Đến đời HùngVương thứ sáu, nhà vua vốn là người đại lượng khoan hòa, nhưng cũng là người khẳng khái, cương nghị, bèn thôi không chịu triều cống nữa.
Vua nhà Ân tức giận, chuẩn bị điều binh xuống xâm lược, bèn cho sứ giả đi dọ thám trước. Sứ giả đến triều đình Văn Lang nói rằng: "Vua của họ muốn đi tuần thú phương Nam. Khi nào tới, vua sở tại phải lo cung đón, tiếp đãi thật chu đáo". Vua Hùng trả lời: "Được, chúng tôi saÜn sàng tiếp đãi".
Sau khi sứ giả ra về, vua Hùng cho vời tất cả triều thần lại để hội kiến. Ai cũng thấy nguy cơ xâm lược đang bày ra trước mắt rồi. Nhà vua đã có phần lo lắng. Một vị Lạc hầu đứng lên nói:
- Muôn tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ chớ nên lo phiền. Trước mắt ta nên chiêu nạp binh mã, chuẩn bị thêm khí giới và tích trữ thêm lương thảo, để lo đối phó sau này. Đất nước ta nhỏ nhưng dầu sao, cũng chẳng thiếu nhân tài vật lực ...
Nhưng một vị Lạc hầu khác lại nói:
- Muôn tâu Bệ hạ. Xin Bệ hạ hà tất phải lo lắng. Bấy lâu nay ta vẫn chăm lo thờ cúng trời đất, tổ tiên nên nhất định phen này sẽ được phù hộ. Vả lại, từ đời các tiên đế còn truyền, là hễ trong nước có việc lớn, thì lập tức lập đàn chay, xin Long Vương về cứu giúp cháu chắt kia mà. Vậy xin Bệ hạ bây giờ hãy cho làm ngay việc đó.
Vua Hùng ngẫm nghĩ trong giây lát, thấy cả lời tâu ấy đều chí lý, nên rất yên tâm, nên bắt tay vào thực hiện.
Một mặt, nhà vua sai sắm sửa cung tên, giáo mác, thu góp lương thực. Lại sai các lạc hầu, Lạc tướng đàn tràng để cúng trời và thỉnh cầu Long Vương. Trên đàn tràng, lễ vật bày biện thật chu đáo, đèn nến thấp sáng trưng, khói hương trầm nghi ngút. Nhà vua trai giới xong thì cúng cấp đủ trong ba ngày, lại cầu khấn rất thành kính.
Đến hết ngày thứ ba thì bỗng đâu mây đen kéo đến, sấm sét đùng đùng , rồi mưa đổ nước xuống như trút. Sau trận mưa, tự nhiên có một cụ già cao lớn, mặt mũi phương phi, râu tóc bạc trắng, đến ngồi nghỉ ở ngã ba đường ngay trước đàn tràng, cụ già nói cười vui vẻ với mọi người khi có ai qua lại chào hỏi, như thể người ông đối với con cháu trong nhà vậy.
Có vị Lạc hầu thấy lạ, đem việc ấy tâu lại với vua Hùng. Nhà vua chỉnh đốn trang phục, đích thân tới chỗ già đang ngồi, rồi thưa bẩm rất lễ phép, và mời cụ lại chỗ dựng đàn tràng để dùng cơm rượu.
Nhà vua rót rượu rồi dâng lên cụ già bằng cả hai tay lễ phép như đối với bâïc trưởng thượng. Cụ già đỡ chén rượu, đưa lên miệng nhấp, cử chỉ cũng thực tự nhiên. Nhà vua tiếp thức ăn rồi sới cơm mời cụ già thảy thảy đều rất mực cung kính, lễ độ.
Sau khi dùng cơm, nhà vua mời cụ già lại bàn xơi nước rồi từ tốn thưa gởi:
- Bẩm cụ. Nước nhà đang sắp có giặc tràn sang. Bản triều cũng đã lo lắng tìm cách đối phó, nhưng cũng chưa dám chắc về sau thành bại thế nào. Chẳng hay cụ từ xa tới, có điều cao minh xin cụ chỉ bảo dùm cho.
Cụ già vuốt râu mỉm cười:
- Đa tạ nhà vua đã có thịnh tình tiếp đãi. Ba năm nữa giặc Bắc mới kép sang đây, nhưng khá khen cho nhà vua đã kịp thời lo liệu. Nay ở xứ Đông, Ngọc Hoàng thượng đế đã phái một thiên tướng xuống trần. Ba năm nữa, nhà vua sẽ cho sứ giả đến đón về để cầm quân chống giặc, khi ấy thiên tướng yêu cầu điều gì, phải lập tức có đầy đủ thì giặc mới tan. Còn bây giờ, những viêïc nhà vua và các quần thần đang làm đều là cần thiết và phải làm đến nơi đến chốn. Nhà vua nên nhớ mình là con rồng cháu tiên, làm điều gì cũng phải nêu gương cho mọi người. Phải hết lòng yêu quý, chăm sóc muôn dân như thể đối với người ruột thịt. Làm được như vậy, thì không giặc dã nào có thể xâm phạm được. Và đất nước sẽ muôn thuở thái bình.
Nói đoạn, cụ già phất tay rồi vụt bay lên trời. Vua Hùng lập tức quỳ xuống, vái theo, thực là cung kính.
Bấy giờ ở làng Gióng, thuộc xứ Đông, về sau cải là làng Phù Đổng thuộc huyện Vũ Ninh, Kinh Bắc (nay là Võ Giàng, Hà Bắc) có ông bà nhà khá giả nhưng đứng tuổi rồi mà vẫn chưa có con. Một hôm, sau đêm giông bão, bà đi thăm đồng, thấy một vết chân khổng lồ, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Từ đấy, bà có mang, đến mười bốn tháng sau mới sinh ra môït chú bé bụ bẫm, kháu khỉnh. Hai ông bà sung sướng lắm. Sau tuần cử, ông chặt tre đan một chiếc nôi thật đẹp, rồi lót quần áo, đặt chú bé vào. Suốt ngày hai ông bà thay nhau đung đưa chiếc nôi, đung đưa chú bé. Chiếc nôi được treo bằng gióng, làm bằng tre. Cả đoạn cây gác ngang sà nhà để đặt Gióng vào, cũng là một đoạn tre.
Được chăm sóc, nâng niu chiều chuộng, chú bé lớn dần và phỏng phao, đẹp đẽ, như mọi đứa bé được chăm sóc, nâng niu chiều chuộng khác. Ấy thế nhưng lạ thay, đã ba năm mà chú bé vẫn chưa biết cười, lại không biết cả lẫy, bò. Nói chi đến ngồi và đi đứng, chú bé cũng không biết nốt.
Chú chỉ suốt ngày nằm ngửa trên nôi, và nay đã lớn, nên ông bố phải làm cho một chiếc nôi khác, lớn hơn .Hai ông bà vẫn hết lòng chăm sóc nâng niu chiều chuộng con. Nào bú mớm, tắm táp, nào là nghiền bột nấu cháo rồi quấy cả trứng gà vào cháo rồi mới cho ăn. Sau năm đầu, tuy cháo nấu bằng gạo, nhưng lại cho cả xương lợn hay cá chép vào, ninh nhừ.
Ngày tuần ngày tiết, ngày lễ ngày tết, hai ông bà lại bày biện lễ vật và thắp đèn nhang, cầu khẩn trời đất, tổ tiên, để phù hộ độ trì. Ấy vậy mà chú bé không nói vẫn hoàn không nói, vẫn không biết lẫy, bò. Lại không cả ngồi dậy, đi đứng ...
Suốt ngày chú chỉ nằm ngủ. Chỉ thức dậy lúc ăn và đại tiện. Dường như mọi việc xung quanh, cả mọi sự xảy ra trên đời này, chú đều không biết và cũng không cần biết.
Ông bố bà mẹ cũng đã bắt đầu có phần lo lắng, còn họ hàng làng xóm thì thực sự ngán ngẫm. Họ nhìn vào gương mặt chú bé thực sáng sủa, đẹp đẽ như thiên thần, mà không hiểu sắp tới điều gì sẽ xảy ra ...
Rồi bỗng đến một hôm, có sứ giả ở tận Kinh đô về, đi một vòng quanh làng, vừa gõ thanh la vừa rao đọc từng hồi:
Loa, loa, loa, loa ...
Ớ làng, ớ xã!
Giặc dã đến rồi!
Tài giỏi ai người?
Hãy ra giúp nước!
Nhàvua trọng dụng,
Làm tướng cầm quân.
Đánh Bắc dẹp Đông
Rồi về lĩnh thưởng!
Ớ làng, ớ xã! ...
Loa, loa, loa, loa...
Ấy chính là lúc, chính lính canh phòng ở biên giới báo về kinh, báo tin giặc Ân sắp sửa tràn sang. Vua Hùng cũng nhẩm tính từ khi Long Vương giáng lâm đến nay đã vừa đúng ba năm. Vẫn nhớ đinh ninh lời dặn dò, nhà vua vội vàng phái ngay sứ giả đến xứ Đông để thỉnh cầu thiên tướng ...
Ở làng Gióng, khi bà mẹ vừa đưa nôi, vừa nghe thanh la và tiếng loa rao đọc thì bỗng mỉm cười, rồi nựng với con rằng:
- Ờ, ờ ... này con, có nghe thấy không? Sứ giả của nhà vua đang đi tuyển mộ nhân tài để làm tướng cầm quân đấy! Giá con lớn nhanh mà đi đánh giặc rồi về lĩnh thưởng cho cha mẹ được nhờ, thì hay lắm nhỉ? Ờ, ờ ...
Nào ngờ, khi bà mẹ vừa nói xong, đã thấy chú bé vươn vai rồi ngồi bật dậy làm cho chiếc nôi chòng chành. Bà mẹ vội vàng bế con đặt tên giường, chú bé nói:
-Thưa mẹ, mẹ hãy ra mời ngay sứ giả vào đây cho con!
Nghe thấy thế, bà mẹ tròn mắt ngạc nhiên, vội chạy ngay sang các nhà láng giềng. Ai nấy đều đổ xô tới. Chú bé cười nói, chào hỏi mọi người như đã là người lớn vậy.
Tuy ai cũng thấy lạ lùng, nhưng nhắc đến việc mời sứ giả vào thì nhiều người hãy còn e ngại ... Chú bé lắng nghe, rồi lên tiếng giục:
- Mẹ cứ ra mời sứ giả vào đây cho con. Không phải sợ sệt đều gì cả.
Bà mẹ làm theo. Khi sứ giả đến, trong thấy chú hãy còn bé tý, cũng hết sức ngạc nhiên, rồi hỏi ngay:
-Chú còn bé thế kia, làm sao có thể làm tướng cầm quân đánh giặc được mà cũng cho gọi ta vào?
Chú bé mỉm cười, trả lời:
- Xin ông đừng lo. Chỉ vài ngày tới nếu ông trở lại sẽ thấy tôi không còn bé nữa. Bây giờø thì ông hãy trở về Kinh đô , tâu với nhà vua rằng: Đúc cho tôi một con ngựa sắt, một thanh kiếm sắt và một chiếc khiên sắt. Được ba thứ ấy hãy cho người mang lại đây cho tôi. Lúc ấy, việc cầm quân sẽ do tôi đảm nhiệm. Ông cũng tâu lại thêm để nhà vua an tâm: giặc Ân nhất định sẽ tan, nên không có gì phải lo lắng cả.
Sứ giả lắng nghe cả mừng, cúi đầu làm lễ cáo biệt, rồi sau đó tức tốc nhảy lên mình ngựa, phi nướùc đại chạy cấp báo về kinh.
Sau khi nge sứ giả tâu trình, nhà vua cho vời các đình thần lại, rồi tươi cười nói với mọi người:
- Thực đúng như lời Long Vương đã nói với ta từ ba năm trước. Bây giờ các khanh hãy cùng nhau đi lo các thứ mà thiên tướng yêu cầu. Xong xuôi đâu đấy, hãy đem lại, rồi điểm tất cả binh mã đến xứ Đông để theo Thiên tướng lên đường giết giặc.
Các đình thần dạ ran, rồi cáo từ nhà vua, đi lo liệu các việc. Một vị Lạc tướng cho người đến tận Châu Hoan (vùng Diễn Châu, Nghệ An) mời "đệ nhất danh sư" nghề rèn là Lư Cao Sơn về kinh để rèn đúc các thứ bằng sắt. Vị danh sư nổi bễ, mọi người cùng xúm vào, kẻ nhóm than, kẻ đổ sắt, kẻ làm khuôn ... Thế là, chỉ trong vòng một tuần, cả ba thứ ngựa, kiếm và khiên sắt, đều đã rèn đúc xong.
Nhà vua sai đóng một chiếc xe lớn, đặt cả ba thứ vào, rồi lại sai đóng 16 ngựa, cho kéo đi trước. Đoàn binh mã của triều đình rầm rộ tiến theo sau.
Đi chưa hết một tuần thì cả đoàn đã tới làng Gióng.
Lại nói, chú bé từ khi nói chuyện với sứ giả xong thì lớn nhanh, mỗi ngày mỗi khác. Mới vài ngày đã như chú bé lên bảy. Vài ngày nữa, lại thành chú bé tuổi mười lăm. Rồi một tuần sau, đã là một chàng trai tráng kiệt. Một tuần sau nữa, lại đã cao lớn gấp đôi một người trưởng thành ...
Nhà cha mẹ chàng tuy là gia đình khá giả, vậy mà cũng không đủ cơm ăn áo mặt cho chàng. Họ hàng, làng xóm phải mang các thứ để giúp đỡ thêm. Người gánh thóc, người dăm cân thịt. Rồi có người mang cho cả một vài vại cà hoặc vại dưa. Quý hồ có thứ gì chàng trai ăn thứ ấy, chẳng hề kiểu cách, nề hà. Áo quần cũng phải đổi thay luôn cho vừa. Còn về nhà ở, khi đã cao gấp ba một người bình thường, thì làng xóm phải xúm lại, dựng riêng cho chàng một ngôi nhà, thật cao ...
Thấy sự lạ lùng, khắp nơi trong vùng mọi người đều đổ xô tới làng Gióng. Lại được cổ vũ bằng tinh thần "Giết giặc lập công", nên người người tìm đến mỗi lúc một đông thêm. Trẻ chăn trâu bò, rồi thanh niên trai tráng, cả những bác nông phu đứng tuổi, ai đến cũng thành ngay bạn bè của chàng. Họ cùng nhau tập luyện võ nghệ: Côn, huyền, giáo, mác , cung, kiếm ... Thứ gì chàng cũng đều tài giỏi, lại chỉ bảo tận tình cho tất cả mọi người. Rồi họ tập đánh trận giả. Tiếng reo hò, tiếng chân chạy huỳnh huỵch, làm náo động cả một góc trời.
Trong những ngày đó, chẳng những họ hàng làng xóm, mà tất cả dân chúng trong vùng, ai có thứ gì cũng chẳng nề hà, mang ngay đến cho chàng và bạn bè của tập luyện. Thóc gạo, thịt cá, dưa cà ... rồi đến vải vóc, nón đội và cả gậy gộc, giáo mác, cung tên ... Quanh vùng làng Gióng suốt ngày đêm rầm rầm như đang trong mùa hội lớn ...Về sau này, có người tính. Khi Thánh Gióng lớn lên ăn hết bảy nong cơm với một nong cà, thì chúng ta e, có lẽ người làm tính đã quên không kể đến số bạn bè rất đông đến đây cùng tập luyện với Ngài chăng?
Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc huyện Tiên Du, nay là Tiên Sơn Bắc Ninh) thì đội quân của Ngài tập luyện đã thành thục cũng là lúc quan quân triều đình mang ngựa sắt, kiếm sắt và khiên sắt đến làng Gióng.
Quan quân đóng trên một bãi đất rộng trong vùng. Cờ xí rợp trời, giáo mác cung tên tua tủa. Đội kỵ binh đóng riêng ở một khu vực, đến nay vẫn còn tên gọi là bãi quần ngựa. Còn đội voi chiến thì đóng ở khu vực khác, đến nay vẫn còn hồ tắm voi ...
Sứ giả cùng một vị Lạc tướng dẫn đội quân đẩy chiếc xe lớn chở các thứ đến tận nhà thiên tướng. Ngài vái chào từ biệt cha mẹ và mọi người rồi vươn vai một cái, bỗng chốc lớn bổng người thêm. Đoạn, Ngài một tay cầm khiên, thét bảo đám bạn bè đã gươm giáo sẵn sàng:
- Tất cả theo ta đi giết giặc!
Ngài phi ngựa chạy đằng trước, các bạn bè chạy theo sau. Chỉ trong chớp mắt tất cả đã tới chỗ quan quân triều đình đang đóng. Ngày lại dẫn đầu cả đoàn quân đông đảo, phi ngựa như bay về phía quân giặc. Loang loáng như ánh chớp sáng lòa, còn bản thân Ngài thét vang như sấm dậy.
Quân giặc đã bày xong thế trận ỏ chân núi Châu Sơn. Ngài phi ngựa thẳng vào, chạy tới đâu quân giặc lăng ra chết tới đó, như đi vào chỗ không người. Mùi thịt cháy khét lẹt. Máu đổ ra lênh láng ...
Nhiều tướng giặc bị giết, đích thân hoàng tử nhà Ân là Thạch Linh làm nguyên soái thống lĩnh ba quân, thấy vậy, múa kiếm xông vào giáp chiến với Ngài. Nhưng chỉ được vài hiệp, Thạch Linh đã phải quay ngựa bỏ chạy. Ngày đuổi theo đến chân núi Võ Sinh (Hải Hưng) thì vung một đường kiếm bổ xuống, Thạch Linh xác xẻ ra làm đôi.
Giặc Ân mất chủ tướng, chạy tan tác như ong vỡ tổ. Quan quân triều đình cùng tốp bạn bè vùng làng Gióng của Ngài, chia nhau theo các ngã truy đuổi quân giặc.
Hàng ngàn tên chạy đến vùng suối Hoa (Thị Cầu, Bắc Ninh) thì bị bao vây, rồi bị tiêu diệt không sót một tên nào.
Sau khi chém chết chủ tướng giặc, Ngài tiếp tục thúc ngựa xông vào những chỗ còn chống cự quyết liệt với quan quân triều đình. Kiếm của Ngài chém xuống nhiều quá, đến nỗi bị gãy ra làm đôi. Ngài quăng đi, rồi dùng tay không, vớ lấy những khóm tre mọc rãi rác bên đường, cứ thế mà quật cả vào đám giặc.
Quân giặc bạt vía kinh hồn, tên nào tên nấy mặt mày tái xanh tái xám. Những tên sống sót vội vàng quỳ xuống, tế như tế sao mỗi khi thấy Ngài thúc ngựa phi tới. Tuy vậy, cũng vẫn còn những tên liều lĩnh, ngoan cố khác vừa chạy vừa quay lại bắn cung nỏ, nhưng đều bị khiên sắt của Ngài gạt ra.
Đuổi giặc đến làng Xuân Tảo (nay thuộc xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), Ngài cho ngựa nghỉ lại uống nước, rồi ngồi trên một phiến đá mở cơm nắm ra ăn. Đến nay phiến đá ấy vẫn còn. Cả phiến đá in dấu chân ngựa của Ngài ở làng Phú Viên nữa, cũng vẫn còn.
Sau đó, Ngài tiếp tục lên ngựa, truy đuổi quân giặc. Đến chân núi Sóc (sau này còn có tên chữ là núi Vệ Linh, nay thuộc xã Phù Linh, huyện Mê Linh) thì Ngài thấy quân giặc đã tan tác hết cả. Ngoảnh lại, Ngài thấy phía xa xa, quan quân triều đình cũng đang thu quân rút về, vừa đi vừa dẫn theo những tốp tù thất trận.
Từ trên mình ngựa, Ngài cởi áo, rồi cầm đến treo ở một mô đá có hình gốc cây mà hiện nay vẫn còn. Chắc là tấm áo thấm đẫm mồ hôi và thấm cả máu giặc tanh tưởi vào, nên Ngài muốn cởi ra cho thanh thản.
Ngài phi ngựa lên giữa đỉnh núi. Tại đây, Ngài ngoảnh mặt đi khắp tám hướng, ngắm nhìn bao quát đất nước Văn Lang một lượt, rồi giật mạnh dây cương, cho ngựa bay vút lên trời.
Hai người bạn từ hồi còn tập luyện ở làng Gióng của Ngài, tên là Hiển và Dục phi ngựa theo sau, đến chân núi Sóc đã thấy Ngài đang bay lên trời rồi. Hai ông nhìn mãi đến hút tầm mắt rồi xuống ngựa, ngồi bệt ngay xuống vệ cỏ mà nghỉ. Ngao ngán quá! " Chủ tướng không ở lại lĩnh thưởng thì mình cũng chẳng nên lĩnh thưởng làm gì. Hai ông nghĩ . Vả lại, vàng bạc có phải do nhà vua làm ra đâu mà cũng là của dân đóng góp cả. Lĩnh thưởng như thế khác nào như lấy của dân, bắt dân cực khổ ra thêm mãi. Giặc dã đến xâm chiếm, bao nhiêu của nả dân đã phải bỏ ra, lại thêm bao nhiêu người vô tội bị chết, như thế còn có chưa đủ hay sao? Ôi! Chủ tướng thật anh minh, đã bay về trời cho dân được nhờ cậy"...
Hai ông để mặc cho ngựa gặm cỏ ở đấy, rồi cứ thế, lững thững đi sâu mãi vào rừng.
Khi quan quân dẫn đám tù binh về triều đình báo tin thắng trận thì vua Hùng cả mừng, ra tận ngoài cổng thành để đón.
Nhà vua rất nóng lòng muốn biết mặt vị thiên tướng giáng trần, nhưng các Lạc hầu, Lạc tướng nhất loạt tâu rằng Ngài đã bay về trời, cả hai vị tướng của Ngài cũng đi biệt vào rừng, không thấy trở lại nữa. Nhà vua nét mặt đang vui bỗng trở nên đăm chiêu nghĩ ngợi. Ngài ra lệnh lập tức dựng một đàn tràng thật lớn để lạy ơn trời đất, tổ tiên đã phù hộ độ trì và phái thiên tướng xuống trần. Đồng thời đàn tràng cũng để Ngài cầu siêu cho linh hồn các tử sĩ trận vong. Sau đó, Ngài mở tiệc khao thưởng quân sĩ, tướng lĩnh, nhất nhất ai cũng có phần xứng đáng cả.
Sự kiện chống giặc Ân này đã để lại cho nhà vua rất nhiều điều đáng suy nghĩ về đạo trị quốc. Bài học mà Ngài rút ra là phải hết lòng chăm lo đến đời sống muôn dân, đúng như ba năm trước Long Vương đã hiện về dạy bảo. Chính vì vậy, sau này về già, Ngài trao lại vương miện cho người con trai tài năng, đức độ nhất trong số 22 người con trai của Ngài, chứ không phải theo lệ cũ là trao cho người con trưởng. Người kế vị đó là Hùng Vương thứ bảy, vị vua đã nghĩ ra bánh chưng, bánh dày để dùng vào các dịp lễ tết, hội hè của cả muôn nhà, và truyền mãi cho đến ngày nay.
Lại thêm về các sự kiện có liên quan đến cuộc kháng chiến chống giặcÂn.
Nhà vua không biết lấy gì báo đáp cho vị thiên tướng giáng lâm, nên phong Ngài là Phù Đổng Thiên Vương và lập miếu thờ ngay tại vườn nhà Ngài khi trước. Lại cấp cho dân trong làng một trăm mẫu ruộng để dùng vào việc trông nom và bốn mùa cúng lễ.
Giặc phương bắc bạt vía. Mặc dù là nước lớn nhưng 644 năm sau không dám động binh xuống xâm lược. Các nước xung quanh Văn Lang hay tin, đều tìm đến xin kết tình hòa hiếu.
Những bụi tre mà Ngài nhổ lên đánh giặc bây giờ mọc thành rừng ở huyện Gia Bình, gọi là tre Đằng Ngà.
Còn chỗ con ngựa của Ngài thét ra lửa đã làm cháy mất một làng. Làng ấy bây giờ gọi là làng Cháy.
Các triều đại phong kiến trước đây đều có sắc thượng phong cho Ngài. Ngoài tôn hiệu "Phù Đổng Thiên Vương" từ trước, đến đời Lý Thái Tổ lại phong là "Xung Thiên Thần Vương". Còn dân chúng, từ bao đời nay vẫn gọi Ngài là , một cách thực tự nhiên và giản dị.
Trong tâm thức của mọi người, Ngài là vị Thánh bất tử đầy quyền năng, bởi vì chính Ngài đã là biểu tượng tuyệt vời nhất cho lòng dũng cảm và đức quên mình của dân chúng.
Từ trước đến nay, có rất nhiều thơ văn ca ngợi công đức của Ngài, cùng nhiều nghi lễ thờ cúng và hội hè. Chỉ xin ghi ra đây đôi câu đối nổi tiếng nhất của Cao Bá Quát:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn
Đằng không khước hận cửu thiên đê.
(Trừ giặc, chẳng nề ba tuổi là muộn Bay lên không, giận chín tầng trời vẫn chưa cao).