25/05/2018, 13:08

Đặng Tiểu Bình

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Nhiệm kỳ 1956 – 1967 Tiền nhiệm Trương Văn Thiên Kế nhiệm Hồ Diệu Bang Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Nhiệm ...

Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc

Nhiệm kỳ 1956 – 1967

Tiền nhiệm Trương Văn Thiên

Kế nhiệm Hồ Diệu Bang

Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc

Nhiệm kỳ 1975 – 1982

Tiền nhiệm Diệp Kiếm Anh, Chu Ân Lai,...

Kế nhiệm Không có

Đảng Đảng cộng sản Trung Quốc

Sinh 22 tháng 8, 1904

Tứ Xuyên, Trung Quốc

Mất 19 tháng 2, 1997 (92 tuổi)

Bắc Kinh

Phu nhân Trác Lâm

(nghe (trợ giúp·chi tiết) giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: Dèng Xiǎopíng; 22 tháng 8, 1904 - 19 tháng 2, 1997) có tên khai sinh là Đặng Tiên Thánh, khi đi học mới đổi là Đặng Hi Hiền (邓希贤), là một lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tên gọi được ông dùng từ năm 1927, sau khi Tưởng Giới Thạch đàn áp phong trào cách mạng Cộng sản tại Thượng Hải.

Tuy rằng ông chưa bao giờ có chức vụ nguyên thủ quốc gia hay đứng đầu chính phủ nhưng ông là người đã cầm quyền trên thực tế tại Trung Quốc trong suốt những năm cuối thập niên 1970 đến đầu thập niên 1990. Chức vụ cao nhất của ông trong Đảng Cộng sản là Tổng Bí thư (sau Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Đảng) thời kì còn Mao Trạch Đông, còn chức vụ cao nhất trong chính phủ là Phó Thủ tướng, nhưng ông từng nắm giữ chức vụ quan trọng là Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Ông đã cải cách đất nước Trung Quốc theo hướng "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc", có công thu hồi Hồng Kông và Ma Cao với chính sách "một nước hai chế độ". Trung Quốc hiện nay phát triển là nhờ theo đường lối của ông.

Thời niên thiếu

Ông sinh tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, và là con trai ông Đặng Thiệu Xương (tự Văn Minh) và bà Đàm Thị, vợ thứ hai. Bà vợ đầu không có con, bà thứ hai (Đàm Thị) sinh được một gái đầu và 3 trai: Đặng Tiên Liệt, , Đặng Khẩn, Đặng Thục Bình. Bà thứ ba sinh được một trai, bà thứ tư (Hạ Bá Căn) sinh được 2 trai, 3 gái. Mẹ đẻ mất sớm, nên sau này ông đã mời kế mẫu Hạ Bá Căn từ quê lên thủ đô sống chung cùng gia đình ông.

Sau khi vào học trung học tại huyện nhà, cha đã xin cho theo học Trường dự bị cần công kiệm học Trùng Khánh để chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7 tháng 9 năm 1920, sau khi được Tổng lãnh sự Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát hạch, Hi Hiền cùng 79 bạn khác lên tàu thủy đi Marseille. Ông đã học ở Pháp, giống như những nhà cách mạng có tiếng khác của Châu Á như Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Tại đây ông đã đi theo học thuyết Marx-Lenin, gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1922 và Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1924.

Sang Nga

Năm 1926, rời Paris sang Nga học Trường Đại học Phương Đông mang tên Tôn Trung Sơn. Ông cùng học với Tưởng Kinh Quốc.

Ông về nước đúng lúc đang diễn ra chiến tranh Bắc phạt. Ông làm ủy viên chính trị trong quân đoàn của Phùng Ngọc Tường, tham gia Bắc phạt. Sau khi bị Phùng Ngọc Tường cho giải ngũ, ông đi Tây An rồi Hán Khẩu, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Năm 1938, lúc ông chỉ huy kháng Nhật ở Thái Hàng Sơn thì cha ông bị thổ phỉ chặt đầu.

Những năm tiếp theo

Đăng Tiểu Bình bên cạnh tổng thống Jimmy Carter

Sau giải phóng, ông làm Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Tây Nam, Chính ủy Quân khu Tây Nam (đóng trụ sở tại Trùng Khánh), kiêm thành viên Chính phủ Nhân dân Trung ương.

Tháng 7 năm 1952, ông được cử làm Phó Tổng lí (Phó Thủ tướng) Chính vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện), kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-kinh tế. Năm 1955, ông cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1956, ông vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, làm Tổng Bí thư nhưng chỉ là nhân vật đứng cuối cùng (thứ 6) trong Ban Thường vụ, sau Mao Trạch Đông (Chủ tịch Đảng), Lưu Thiếu Kì, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân (đều là Phó Chủ tịch Đảng).

Năm 1966, trong Cách mạng văn hóa, bị phê phán nặng nề là "tên số hai trong Đảng đi theo chủ nghĩa tư bản", rồi bị cách tuột hết mọi chức vụ. Từ năm 1969 đến năm 1972, hai vợ chồng ông bị đưa về Giang Tây, con cái đều bị đưa đi cải tạo ở các tỉnh khác.

Ngày 20 tháng 3 năm 1973, ông rời Giang Tây, quay trở lại Trung Nam Hải (Bắc Kinh), sau khi được phục hồi công tác. Ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, rồi Phó Chủ tịch Đảng. Về mặt chính quyền, ông trở lại cương vị Phó Thủ tướng, rồi Phó Thủ tướng thứ nhất. Khi Chu Ân Lai lâm bệnh nặng, ông chủ trì công việc của Quốc vụ viện.

Năm 1976, sau khi Chu Ân Lai mất, thế lực chống đối viện cớ ông có tư tưởng phản cách mạng và tác động đến Mao Trạch Đông, vì vậy ông lại bị Mao Trạch Đông cách hết các chức vụ, chỉ còn danh hiệu đảng viên và hộ khẩu Bắc Kinh.

Sau khi nhóm người được gọi là "bè lũ bốn tên" bị lật đổ, được khôi phục tất cả các chức vụ: Phó Chủ tịch Đảng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng. Từ đây, ông bắt đầu đưa Trung Quốc bước vào kỉ nguyên cải cách mở cửa.

Sau khi trở lại chính trường, năm 1978 tung ra chương trình ‘Bốn hiện đại hóa’ và lại để cho dân dán ‘Đại tự báo’ nhưng lần này là để tố cáo những đau khổ do Cách mạng Văn hóa gây ra.

Sự kiện Thiên An Môn

Vào năm 1989, Sự kiện Thiên An Môn diễn ra, đây là cuộc biểu tình đòi dân chủ của các sinh viên Trung Quốc. theo phe ủng hộ sự thay đổi trong nền kinh tế Trung Quốc, cùng với một số đồng minh như Triệu Tử Dương. Không có một báo cáo đích xác về vai trò của trong cuộc biểu tình, dù có một số người tin rằng ông ta đã tham gia vào việc ra lệnh đàn áp sinh viên bằng xe tăng. Sau cuộc thảm sát Thiên An Môn lui khỏi chính trường nhưng vẫn đóng một vai trò quan trọng ở Trung Quốc. qua đời năm 1997.

Ngày 22/8/1904: (tên khai sinh là Đặng Hỷ Tiên) sinh tại làng Bạch Phương, phía tây nam tỉnh Tứ Xuyên. Ông là con trai cả của một cảnh sát trưởng ở huyện.

Năm 1920: Mới 16 tuổi, Đặng Hỷ Tiên đã rời Tứ Xuyên để lên Thượng Hải, từ đó đón tàu sang Pháp để học. Trong thời gian học tập tại Pháp, làm rất nhiều nghề chân tay để kiếm tiền trang trải sinh hoạt, từ công nhân nhà máy sản xuất vũ khí, bồi bàn, thu vé trên xe lửa và lắp ráp ủng cao su.

Tháng 6/1922: Đặng Hỷ Tiên gia nhập đảng Cộng sản của Thanh niên Trung Quốc tại châu Âu. Một năm sau, ông được bầu làm chủ tịch liên đoàn. Với một tư duy rất thực tế, Đặng đã tìm cách tăng gấp đôi số lượng bản tin của đảng này và phân phát rộng rãi.

Năm 1924: Gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc tại Pháp.

Năm 1926: Sang Moscow để học và sau đó trở về Trung Quốc.

Năm 1927: Sau khi Tưởng Giới Thạch đàn án phong trào cách mạng tại Thượng Hải, Đặng Hỷ Tiên đổi tên thành .

Tháng 1/1928: kết hôn với người vợ đầu là Chương Tử Nguyên.

Năm 1930: Chương Tử Nguyên chết sau một ca đẻ non đứa bé gái của hai người.

Năm 1931: bắt đầu cùng Mao Trạch Đông thành lập căn cứ của Hồng Quân tại tỉnh Giang Tây.

Năm 1932: kết hôn với Jin Weiying, người vợ thứ hai của ông.

Năm 1933: Tháng 10, Tưởng Giới Thạch phái 1 triệu quân tấn công căn cứ của Mao Trạch Đông tại tỉnh Giang Tây. Lúc này, trong nội bộ đảng Cộng sản Trung Quốc có nảy sinh một số mâu thuẫn. Cùng với Mao, bị khai trừ khỏi ban lãnh đạo đảng. Trước tình cảnh này, người vợ thứ hai đã yêu cầu ly dị Đặng để kết hôn với người khác.

Năm 1939: kết hôn với người vợ thứ 3 là Trác Lâm. Bà sinh cho ông 3 người con gái và 2 con trai.

Năm 1945: chỉ huy sư đoàn 129 xuống khu vực miền trung Trung Quốc, buộc lực lượng Quốc Dân Đảng rút chạy.

Năm 1948: Tham gia chỉ huy chiến dịch Hoài Hải, mở rộng mặt trận sang bên kia sông Dương Tử.

Năm 1950: Mao Trạch Đông trở thành người lãnh đạo Trung Quốc. được giao nhiệm vụ tại Tây Tạng.

Năm 1952: Ông trở về Bắc Kinh và được bổ nhiệm giữ chức Phó Thủ tướng.

Năm 1956: trở thành Uỷ viên Bộ Chính trị.

Năm 1957: tháp tùng Mao Trạch Đông trong chuyến thăm Moscow.

Năm 1960: Sau 2 năm thực hiện chính sách "Đại nhảy vọt", nền kinh tế Trung Quốc rơi vào khủng hoảng. Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ cùng đưa ra đề xuất cải cách kinh tế. Trong chuyến đi Quảng Châu, Đặng đã đưa ra quan điểm thực tế của mình về việc cứu đói cho dân bằng bất cứ giá nào.

Năm 1966: Tháng 5, Mao Trạch Đông chỉ thị tiến hành cuộc Đại cách mạng văn hoá. Lần thứ hai trong cuộc đời chính trị của mình, bị khai trừ vì mâu thuẫn trong nội bộ đảng Cộng sản và những tư tưởng thực tế của ông trong cải cách kinh tế. bị buộc phải đội mũ tai lừa diễu hành trên phố, sau đó bị đưa về nông thôn để làm việc tại xưởng máy kéo. (Trong lúc này Lưu Thiếu Kỳ bị kết án tù).

Năm 1968: Con trai cả của là Đặng Phúc Phương đang học đại học Bắc Kinh bị những sinh viên cực đoan cùng trường trùm đầu và khống chế cho tới khi bị ngã khỏi cửa sổ tầng 4. Kể từ tai nạn đó, Đặng Phúc Phương trở thành người tàn phế.

Năm 1969-1972: Hai vợ chồng bị đưa về Giang Tây. Tại đây, hai người đã phải nỗ lực giúp con trai phục hồi, song không thành công.

Năm 1973: Tháng 8, Mao Trạch Động cho phép quay trở lại Bắc Kinh để giúp ông kiểm tra mức độ ảnh hưởng của Quân đội Giải phóng Nhân dân. tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng và trong vòng 2 năm sau đó, ông giúp Chu Ân Lai thực hiện "4 Hiện đại hoá".

Năm 1976: Tháng 4, lần thứ 3, lại bị khai trừ sau khi chỉ trích cuộc Cách mạng Văn hóa. Ngày 9/9, Mao Trạch Đông từ trần, chỉ định Hoa Quốc Phong là người thay thế.

Năm 1977: Ngày 22/7, được phục chức Phó Thủ tướng, vị trí giúp ông có đủ quyền lực cần thiết để tiếp tục những ý tưởng cải cách kinh tế của mình.

Năm 1978: nêu kế hoạch cải cách kinh tế trước phiên họp toàn thể đảng Cộng sản Trung Quốc, đánh dấu sự mở đầu của chính sách "mở cửa".

Năm 1979: Thăm Mỹ nhằm bình thường hoá quan hệ hai nước.

Năm 1980: Bè lũ bốn tên do Giang Thanh cầm đầu bị xét xử. Giang Thanh lãnh án tử hình. Lúc này, Thâm Quyến đã trở thành đặc khu kinh tế đầu tiên tại Trung Quốc, bước đầu chứng minh sự đúng đắn của cuộc cải cách kinh tế do đề xuất.

Năm 1987: Thôi giữ các chức vụ trong chính phủ, trừ vị trí của ông trong quân đội.

Năm 1990: Chính thức thôi giữ các chức vụ cuối cùng.

Năm 1994: Lần cuối cùng xuất hiện trước công chúng trong lễ mừng Tết Nguyên đán.

Ngày 19/2/1997: từ trần lúc 9h08' tối.

Cha mẹ

Người vợ

Người vợ thứ 3 của ông là Trác Lâm, có 5 con.

Những người con

Đặng Lâm (trưởng nữ)

Đặng Phác Phương (con thứ nhưng là trưởng nam)

Đặng Nam (nữ)

Đặng Dung (nữ)

Đặng Chất Phương (nam).

Hình của xuất hiện trên một tấm bảng ở một vườn hoa tại Thẩm Quyến, Quảng Đông.

Câu nói có tầm ảnh hưởng nhất của ông là: Chỉ có thực tiễn mới kiểm nghiệm được chân lý.

Câu nói của được nhiều người biết đến là:“ Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng miễn là nó bắt được chuột. ”

Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, chỉ vài tháng trước cuộc chiến với Việt Nam, ông nói một câu khó quên được Trung Quốc truyền hình trực tiếp:“ Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học. ”

Qua cuộc chiến này đã cho thấy đây là một quyết định sai lầm của , đã làm hàng vạn dân Việt Nam và quân Trung Quốc đã bỏ mạng. Nhưng đó cũng cho thấy sự yếu kém của quân đội Trung Quốc và sau đó Trung Quốc đã tiến hành cải cách và hiện đại hóa vũ khí của quân đội và sau này đã trở thành một cường quốc.

0