25/05/2018, 12:04

Đại Việt Quốc dân đảng

(chữ Hán: 大越國民黨) còn gọi tắt là đảng Đại Việt là một tổ chức chính trị do Trương Tử Anh sáng lập vào ngày 10 tháng 12 năm 1939, lấy Chủ Nghĩa Dân tộc Sinh tồn làm nền tảng lý thuyết. Đảng ca của đảng Đại Việt là bài Việt Nam minh châu trời đông. ...

(chữ Hán: 大越國民黨) còn gọi tắt là đảng Đại Việt là một tổ chức chính trị do Trương Tử Anh sáng lập vào ngày 10 tháng 12 năm 1939, lấy Chủ Nghĩa Dân tộc Sinh tồn làm nền tảng lý thuyết. Đảng ca của đảng Đại Việt là bài Việt Nam minh châu trời đông.

Cơ cấu trung ương của Đảng lúc nguyên thủy đặt ở Hà Nội. Trung ương cũng điều hành Xứ bộ Bắc Việt trong khi Trung Việt và Nam Việt có xứ bộ riêng. Ngoài ra Đảng Đại Việt còn có nhân sự hoạt động ở Lào và Cao Miên. Những đảng viên tên tuổi có Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Sĩ Dinh, Phan Cảnh Hoàng, Trương Bá Hoành, Đặng Vũ Trứ, Nguyễn Sơn Hải, Tạ Thành Châm, Phan Bá Trọng, Nguyễn Tôn Hoàn, Nguyễn Định Quốc, Đặng Xuân Tiếp, Đặng Vũ Lạc, Ngô Gia Hy, Đặng Văn Sung, Bùi Diễm, Trần Trung Dung, Nguyễn Đình Luyện, Phan Huy Quát, Lê Thăng, Bửu Hiệp, Hà Thúc Ký, Hoàng Xuân Tửu, Dương Thiệu Di. Nguyễn Tôn Hoàn được giao phó làm phát ngôn viên của Đảng và liên lạc viên giữa các Xứ bộ.

Được vài năm sau khi thành lập, Đại Việt Quốc Dân Đảng kết hợp với Đại Việt Quốc xã của Nguyễn Xuân Tiếu; Đại Việt Duy dân của Lý Đông A; và Đại Việt Dân chính của Nguyễn Tường Tam thành lập một mặt trận chung với tên gọi là Đại Việt Quốc gia Liên minh với mục đích liên kết với Nhật để đánh Pháp vào năm 1944. Ngoài ra Tân Việt Nam Quốc dân Đảng do Nhượng Tống lãnh đạo cũng gia nhập liên minh này. Ban Chấp hành Trung ương bầu Nguyễn Xuân Tiếu làm chủ tịch.

Đại Việt Quốc gia Liên minh

Khi Nhật đảo chánh Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 thì Đại Việt Quốc gia Liên minh đứng ra lập Ủy ban Chính trị Bắc Kỳ mong tiếp quản quyền điều hành từ tay người Nhật nhưng chính phủ Tokyo chọn duy trì thể chế quân chủ của triều đình Huế và ủy thác cho chính phủ Trần Trọng Kim của vua Bảo Đại. Thủ tướng cho lập Ủy ban Giám đốc Chính trị Miền Bắc với Nguyễn Xuân Chữ, Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc Kỳ), Trần Văn Lai (thị trưởng Hà Nội), Nguyễn Tường Long (đảng viên Đại Việt), cùng Đặng Thai Mai tham gia và giao cho Ủy ban trọng trách ổn định tình hình sôi động ngoài Bắc. Nhưng chưa làm chủ được tình hình thì lực lượng Việt Minh đoạt chính quyền rồi hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị khiến Ủy ban mất cơ sở hoạt động, phải giải tán và Đại Việt Quốc gia Liên minh cũng tan vì không nhất trí được.

Gia nhập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam ở miền Bắc

Cờ hiệu của Đại Việt Quốc dân Đảng, sau dùng chung cho Mặt trận Quốc dân Đảng kể cả Việt Nam Quốc dân Đảng

Trước thắng thế của Việt Minh, ngày 15 tháng 12 năm 1945 cùng với Việt Nam Quốc dân đảng (lãnh tụ là Vũ Hồng Khanh) và Đại Việt Dân Chính Đảng (lãnh tụ là Nguyễn Tường Tam) thành lập Mặt trận Quốc dân Đảng Việt Nam để chống lại phe Cộng sản. Cờ hiệu của Đại Việt là lá cờ nền đỏ, tròng xanh, sao trắng và ca khúc "Việt Nam Minh châu trời đông" của Hùng Lân được dùng chung cho cả Mặt trận. Lá cờ này sau thường được cho là biểu tượng của Việt Nam Quốc dân Đảng nhưng đúng ra đây là đảng kỳ của Đại Việt. Trương Tử Anh làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Bí thư trưởng và Nguyễn Tường Tam làm Tổng thư ký. Trước đó mấy tháng thì Võ Nguyên Giáp đã ký thay chủ tịch Việt Minh Hồ Chí Minh, sắc lệnh số 8 giải thể Đại Việt Xã hội Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng vì cho rằng "Đại Việt Xã Hội Đảng tư thông với ngoại quốc để mưu những việc có hại cho sự độc lập Việt Nam" và "Đại Việt Quốc Dân Đảng đã âm mưu những việc hại cho sự độc lập quốc gia và nền kinh tế Việt Nam". Kết quả là các đảng viên Đại Việt Quốc dân Đảng không được ứng cử vào vào quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bất chấp lệnh giải tán, Đại Việt Quốc Dân Đảng đưa ra kế hoạch bốn điểm nhằm chống lại Việt Minh trong việc bầu cử Quốc hội và thành lập Chính phủ Liên hiệp:

1. Phát động phong trào toàn dân bất hợp tác với Việt Minh

2. Tách rời cựu hoàng Bảo Đại ra khỏi Việt Minh và vô hiệu hóa Quốc hội Việt Minh

3. Thành lập một Trung tâm chính trị ở hải ngoại

4. Củng cố các chiến khu, tăng cường khối Quốc Dân Quân, mở rộng địa bàn hoạt động.

Nguyễn Hải Thần thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tuy cũng chống Cộng sản nhưng chấp nhận thỏa hiệp với Việt Minh và làm Phó Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Sau đó Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh, hai nhân vật trong Mặt trận Quốc dân Đảng cũng đã gia nhập chính phủ Liên hiệp và hợp tác với Việt Minh trong khi đảng Đại Việt, mặc dù đứng chung trong Mặt trận Quốc dân Đảng vẫn một mực không hợp tác. Đây là điểm khác biệt chính giữa Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng.

Ngày 6 tháng 3 năm 1946, khi Chính phủ Liên hiệp ký kết Hiệp định Sơ bộ với Pháp, đồng ý cho Pháp kéo ra phía bắc vĩ tuyến 16 để giải giới quân đội Nhật Bản thay cho quân đội Trung Hoa thì đảng Đại Việt nhất quyết chống lại thỏa ước đó và tách xa lập trường của Việt Nam Quốc dân Đảng. Tranh chấp giữa Việt Minh và các đảng phái khác trong Chính phủ Liên hiệp vào thời điểm này càng sâu đậm để rồi đưa đến xung đột võ trang. Việt Minh thì lợi dụng sự hợp tác với Pháp để đánh vào chiến khu Quốc dân Đảng ở Vĩnh Yên. Trong khi đó ở Hà Nội diễn ra vụ án Ôn Như Hầu mà Việt Minh ghép là chứng tích Quốc dân Đảng đã làm nhiều việc phi pháp như bắt cóc, tống tiền và cướp của. Một số cán bộ của Quốc dân Đảng bị bắt và mất tích. Ngày 19 tháng 12 năm 1946 thì đảng trưởng Trương Tử Anh đột ngột mất tích, nhiều người cũng cho là bị Việt Minh thủ tiêu.

Trong thời gian này trụ sở của Trung ương Đảng bộ đặt ở Hà Nội và cho ra ba ấn phẩm: nhật báo Việt Nam, tuần báo Chính nghĩa và đặc san Sao trắng. Những ấn phẩm khác có báo Đồng minh, và Thanh niên. Để vận động đại chúng tranh đua với Việt Minh, Đảng lập ra Phong trào Quốc gia Bình dân và Đoàn Thanh niên Bảo quốc.

Rải rác khắp ba miền Đảng Đại Việt thiết lập chiến khu ở Kép (Bắc Giang), Lạc Triệu (Bắc Giang), Yên Bái, Di Linh (huyện Nông Cống, Thanh Hóa), An Điền (huyện Thủ Đức, tỉnh Gia Định), An Thành (Vĩnh Long), và Ba Rài (Mỹ Tho). Riêng ở Lạc Triệu và Yên Bái thì có trường huấn luyện sĩ quan.

Thành lập Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ở miền Nam

Ở Nam Kỳ thì Đại Việt Quốc dân Đảng liên kết với những nhóm không cộng sản khác như Việt Nam Quốc dân Đảng do Phạm Hữu Đức lãnh đạo, lực lượng Cao Đài của Trình Minh Thế, lực lượng Phật giáo Hòa Hảo của Huỳnh Phú Sổ và nhóm Bình Xuyên của Dương Văn Dương hầu thu hút các thành phần mong muốn Việt Nam độc lập nhưng không muốn gia nhập Việt Minh. Kết quả là Mặt trận Quốc gia Liên hiệp ra đời vào Tháng Tư năm 1946 với Huỳnh Phú Sổ làm chủ tịch. Việt Minh cũng gửi đại diện tham gia trong Mặt trận nhưng đến Tháng Năm thì rút lui. Thanh niên Bảo quốc Đoàn thành lập năm 1948 hoạt động mạnh nhất ở trong Nam. Đảng Đại Việt cũng đã vận động cựu hoàng Bảo Đại tiến đến sự thànnh lập Quốc gia Việt Nam.

1954-1963

Sau Hiệp định Genève, hầu hết cán bộ đảng viên và các cơ sở của Đại Việt Quốc dân Đảng đều dời vô miền Nam. Năm đảng viên Đảng Đại Việt chiếm 5 trong số 19 ghế Nội các trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam:

1. Lê Thăng, Bộ trưởng Ngoại giao

2. Phan Huy Quát, Bộ trưởng Giáo dục

3. Nguyễn Tôn Hoàn, Bộ trưởng Thanh niên

4. Đặng Trinh Kỳ, Tổng Thư ký Chính phủ

5. Nguyễn Hữu Trí Thủ hiến Bắc phần.

Dưới thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam (1955-1963) lực lượng của Đảng bị suy yếu nhiều vì áp lực của chính phủ. Trong số ba chiến khu của Đảng là Ba Lòng (Quảng Trị), Nguyễn Huệ (quận Tuy Hòa, Phú Yên) và Châu Đốc thì Ba Lòng bị quân đội tiến đánh khiến tan vỡ. Hoạt động của Đảng gần như ngưng hẳn vì thái độ không chấp nhận đối lập của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Đảng Đại Việt cùng với Việt Nam Quốc dân Đảng cũng ủng hộ cuộc đảo chính hụt ngày 11 Tháng Mười Một năm 1960 của đại tá Nguyễn Chánh Thi nên hai tổ chức này càng bị Đảng Cần lao trấn áp.

Năm 1964 trở đi

Sau khi Đệ nhất Cộng hòa sụp đổ và sang thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam Đảng Đại Việt bắt đầu tranh thủ dân tâm trở lại. Một số đảng viên tên tuổi tham chính gồm có:

1. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn: Phó Thủ tướng

2. Hà Thúc Ký: Tổng trưởng Nội vụ

3. Bác sĩ Phan Huy Quát: Thủ tướng

4. Đại tướng Trần Thiện Khiêm: Thủ tướng Chính phủ

Trong cuộc tuyển cử Thượng viện Quốc hội Việt Nam Cộng hòa năm 1967, liên danh của Đảng Đại Việt là một trong sáu liên danh chấp chính. Số đảng viên vào cuối thập niên 1960 là khoảng 20.000 người.

Đảng cũng cho phát hành tập san Đuốc Việt và báo Tự quyết làm cơ quan ngôn luận và liên lạc của Đảng.

Ngoài ra Bác sĩ Đặng Văn Sung, một trong những người lãnh đạo Đảng cũng là chủ nhiệm báo Chính luận, một tờ báo lớn thời Việt Nam Cộng hòa nên Đảng cũng có nhiều ảnh hưởng trên diễn đàn thông tin chung.

Mặc dù phục hoạt sau khi Đệ nhất Cộng hòa bị lật đổ, năm 1964 Đảng Đại Việt lại bị phân hoá chia ra thành mấy nhóm. Nhóm nguyên thủy thường được gọi là Đảng Đại Việt Cách mạng chính thức lấy danh hiệu mới ngày 25 tháng Chạp năm 1965, thành phần nòng cốt khu vực Quảng Trị và Thừa Thiên trong khi có nhóm mới hơn, thu nhận những đảng viên trẻ hơn chủ yếu ở vùng Lục tỉnh, lập ra Đảng Tân Đại Việt, chính thức hoạt động từ ngày 14 Tháng Mười Một năm 1964.

Tân Đại Việt dùng cờ hiệu khác, chen một dải màu vàng vào giữa nền đỏ. Đại diện cho Tân Đại Việt là Chủ tịch Phan Thông Thảo trong khi giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nắm chức tổng thư ký của Đảng. Ông cũng là một người trong phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hòa đàm Paris. Tân Đại Việt còn lập ra hai tổ chức ngoại vi Phong trào Quốc gia Cấp tiến để thu hút các thành phần không phải đảng viên nhưng hợp tác được với nhau.

Trong khi đó Tổng Bí thư và cũng là Chủ tịch Đảng Đại Việt Cách mạng là Hà Thúc Ký; phó tổng bí thư là Trần Việt Sơn. Đảng kỳ của Đại Việt Cách mạng cũng thay đổi, giữ sao trắng trong vòng tròn xanh nhưng nửa trên của cờ màu vàng, nửa dưới màu đỏ. Hai tờ báo Saigon Post (Anh ngữ) và Chính luận, một trong những tờ nhật báo lớn nhất Miền Nam đều do đảng viên Đại Việt điều hành.

Đảng Đại Việt tổ chức theo từng miền tức xứ bộ. Đứng đầu xứ bộ là xứ ủy. Riêng xứ bộ Bắc Kỳ không có xứ ủy mà phụ thuộc Trung ương. Trung ương đảng sau năm 1964 không nhóm họp nữa vì những chi rẽ nội bộ giữa các xứ bộ. Đơn vị nhỏ nhất là chi bộ của một phường hay một xã gồm 15-25 đảng viên. Lớn hơn là khu bộ của một quận, thị xã, hay tỉnh. Lớn hơn nữa là biệt bộ.

Đối với Tân Đại Việt chiếu theo Hiến chương 1974 thì đứng đầu có Trung ương Ủy Hội với 9 ủy viên do Đại Hội đồng Trung ương Đảng bộ bầu ra. Chủ tịch Trung ương Ủy hội cũng là Chủ tịch Đảng. Trung ương Ủy hội có quyền quyết định tối hậu. Cơ quan thường trực của Đảng là Bộ Chánh trị với 7 đến 9 trung ương ủy viên, đứng đầu là Chủ nhiệm.

Đảng Đại Việt tái tổ chức lại ở hải ngoại

Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, đại bộ phận của Đại Việt thoát ra nước ngoài. Bắt đầu từ năm 1981 thành phần Tân Đại Việt do Nguyễn Ngọc Huy huy động lập ra Liên minh Dân chủ Việt Nam. Sang năm 1992, ông Huy và cựu Đại sứ Bùi Diễm vận động kết hợp mọi đảng viên Đại Việt cũ nay lưu vong ở Bắc Mỹ, Úc và Châu Âu trở lại sinh hoạt Đảng, và Đại Hội Đảng được tổ chức vào tháng 8 năm 1992 ở Longview, California. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn được Đại hội bầu làm Chủ Tịch Đại Việt Quốc Dân Đảng, bác sĩ Lý Ngọc Dưỡng được bầu làm Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương.

Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn mất vào tháng 9 năm 2001 sang năm sau thì Đại Việt Quốc Dân Đảng tổ chức Đại Hội Đảng vào tháng 8 tại Garden Grove, California. Đại Biểu trong Đại Hội đã bầu tiến sĩ Phan Văn Song làm Chủ Tịch Đảng, kỹ sư Trương Việt Hoàng làm Chủ Tịch Ban Chấp Hành Trung Ương . Thành phần lãnh đạo của Đại Việt Quốc Dân Đảng được Hội Đồng Chỉ Đạo của Đảng quyết định lưu nhiệm cho đến năm 2010, qua Đại Hội ở San Jose, California, vào ngày 16 tháng 3 năm 2006.

Nhiệm kỳ của Cơ quan Lãnh Đạo Trung Ương do tiến sĩ Phan Văn Song lãnh đạo mãn nhiệm vào năm 2010. Một Ðại Hội Ðại Biểu Các Cơ Sở Ðảng trên toàn thế giới đã được tổ chức tại Westminster miền Nam tiểu bang California, Hoa Kỳ vào 2 ngày 8 và 9, tháng 5 năm 2010. Ðại Hội đi đến quyết định lấy Ðảng Quy 1995 làm căn bản, tu chính một số điều khoản để thích ứng với tình hình mới, bỏ chức Chủ Tịch Ðảng để bày tỏ sự tôn kính với Ðảng Trưởng Trương Tử Anh - người sáng lập và là vị Chủ Tịch Ðảng đầu tiên.

Ðể năng động và hữu hiệu hóa các hoạt động của Ðảng, Ðại Hội đã thông qua nghị quyết trẻ trung hóa hàng ngũ lãnh đạo: đảng viên trên 67 tuổi được mời vào Ban Cố Vấn để hướng dẫn đảng viên thuộc thế hệ trẻ. Ðại Biểu trong Ðại Hội đã bầu kỹ sư Trương Việt Hoàng giữ chức Chủ Tịch Ban Ðiều Hành Trung Ương. Ông Trương Việt Hoàng đề cử tiến sĩ Ðỗ Hùng giữ chức vụ Tổng Thư Ký của Ban Ðiều Hành, ông Cả Vĩnh vào chức Tổng Thủ Quỹ và 16 Trung Ương Ủy Viên giữ chức vụ Ủy Viên cho các ban. Tất cả đã được Ðại Hội bỏ phiếu thông qua. Ðại Hội Ðại Biểu cũng tiếp tục bỏ phiếu tín nhiệm ông Nam Quốc trong chức vụ Chủ Tịch Ban Giám Sát.

0