25/05/2018, 14:43

Cường Để

Kỳ Ngoại Hầu Kỳ Ngoại hầu (chữ Nho: 畿外侯彊柢; 1882-1951) nguyên tên là Nguyễn Phúc Đan (阮福單), còn có biệt danh là Nguyễn Trung Hưng (阮中興) là một nhà cách mạng Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. ...

Kỳ Ngoại Hầu

Kỳ Ngoại hầu (chữ Nho: 畿外侯彊柢; 1882-1951) nguyên tên là Nguyễn Phúc Đan (阮福單), còn có biệt danh là Nguyễn Trung Hưng (阮中興) là một nhà cách mạng Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.

Về gia thế, ông là cháu trực hệ của hoàng tử Cảnh, tức là cháu đích tôn 6 đời của vua Gia Long (do hoàng tử Cảnh mất sớm, ngôi vua truyền về ngành thứ 2 của hoàng từ Đảm, tức vua Minh Mạng.)

(đứng) và Phan Bội Châu, năm 1907

Vì nguyên cớ dòng dõi chính thống của gia đình ông, nên nhiều nhà ái quốc như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu đã có kế hoạch liên lạc với gia đình ông để lập lại ngôi vua, thay cho vua Khải Định vì vị vua này hợp tác với thực dân Pháp. Tuy nhiên vì lý do tuổi già, cha ông từ chối, nhưng giới thiệu ông thay mặt gia đình tham gia phong trào. Khi Phan Đình Phùng mất, khả năng đấu tranh vũ trang không còn, ông chuyển sang hoạt động chính trị.

Năm 1906 ông trốn sang Nhật và cùng với Phan Bội Châu cổ động phong trào Đông Du. Là một hoàng thân nhà Nguyễn, ông có tư tưởng quân chủ lập hiến và nhận làm người lãnh đạo Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội. Địa bàn ảnh hưởng của ông mạnh nhất trong giới giáo dân Cao Đài. Thời gian ở Nhật ông giả dạng là người Tàu hoặc Nhật và dùng một số bí danh như Lâm Đức Thuận (chữ Hán: 林徳順, Lin De Shun, Rin Toku Jun), Nam Nhất Hùng (chữ Hán: 南一雄, Minami Kazuo) để tránh sự theo dõi của nhà chức trách Nhật và Pháp.

Năm 1910, người Nhật do muốn vay 300 triệu franc từ Chính phủ Pháp nên chấp thuận yêu sách của Pháp trục xuất ông và Phan Bội Châu, cũng như các học viên thuộc phong trào Duy Tân tại Nhật. Ông phải rời bỏ Nhật sang Trung Quốc và lưu lạc một thời gian ở Xiêm và sang cả Âu Châu. Các học viên của phong trào Duy Tân cũng theo ông sang Trung Quốc tiếp tục hoạt động phản kháng Pháp, đa số sau này không trở về Việt Nam mà trở thành công chức trong bộ máy chính quyền ở Trung Quốc, hoặc làm quan nhỏ như quan huyện ở địa phương.

Năm 1915 ông trở về Nhật Bản, cư ngụ ở phường Ômori, Tokyo, giao du với những chính khách Nhật như Inukai Tsuyoshi, Kashiwabara Buntaro, và Matsui Iwane. Những nhân vật này cũng tham gia hiệp hội Kissaragi-Kai với chủ trương ủng hộ tinh thần và tài chánh cho . Vì trông cậy vào người Nhật, ông ủng hộ quân Nhật xâm chiếm Việt Nam thời Đệ nhị Thế chiến vì nghĩ họ có thể giải phóng đất nước khỏi tay thực dân Pháp. Tuy nhiên sau đó vì thấy họ không thật tình muốn giúp người Việt mà chỉ muốn tranh giành ảnh hưởng với các cường quốc Tây phương tại Á Đông, ông đã thất vọng.

Ông mất năm 1951. Di chúc ông dặn trao lại các tài vật cho giáo hội Cao Đài. Do đó năm 1954 một phần di cốt của ông được người Nhật trao cho lãnh đạo Cao Đài Phạm Công Tắc đem về Tây Ninh. Năm 1957 phần thứ hai di cốt của ông cũng được hồi hương. Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm đã cử hành trọng lễ đón nhận. Phần thứ ba di cốt được chôn trong mộ phần của Đông Du học sinh Trần Đông Phong ở ga Zōshigaya(雑司ヶ谷) thuộc tuyến Toden Arakawa (都電 荒川線. Hổ thẹn vì không vận động quyên góp đủ số tiền cho Phong trào, Trần Đông Phong đã tự sát năm 1908. Cảm kích trước nghĩa khí đó, chính hoàng thân đã xây mộ phần cho anh và rồi mộ phần đó lại được dùng làm nơi an nghỉ cuối cùng cho lãnh tụ Việt Nam Phục Quốc Đồng minh Hội.

Trong thời gian ông ở Nhật, Kỳ Ngoại hầu đã chung sống với một phụ nữ Nhật tên Ando Shigeyuki (安藤成行)

0