24/05/2018, 21:10

Công cụ thị trường vốn

Thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính, ở đó diễn ra việc trao đổi các công cụ nợ trung và dài hạn, các cổ phiếu. Đảm bảo luân chuyển nguồn vốn trung dài hạn trong nền kinh tế từ người có vốn sang người cần vốn thông qua việc mua bán công ...

Thị trường vốn là một bộ phận của thị trường tài chính, ở đó diễn ra việc trao đổi các công cụ nợ trung và dài hạn, các cổ phiếu. Đảm bảo luân chuyển nguồn vốn trung dài hạn trong nền kinh tế từ người có vốn sang người cần vốn thông qua việc mua bán công cụ nợ. Nhìn chung các công cụ nợ trong thị trường vốn có tính lỏng kém, tính chất hoạt động của thị trường này mang tính rủi ro cao, sự thay đổi giá cả khá phức tạp.

Là một loại chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Là một chứng khoán có giá, có quyền nhận lãi và hoa hồng. Cổ phiếu có thể dùng mua bán và thế chấp, trở thành một trong những phương tiện tín dụng dài hạn chủ yếu của thị trường tiền vốn.

Tính tất yếu khách quan phát hành cổ phiếu trong điều kiện XHCN

Trước hết, xem xét từ nhu cầu tiền vốn. Một mặt, hạng mục xây dựng trọng điểm của Nhà nước không ngừng tăng lên, mức sống nhân dân tăng lên nhanh chóng, cần nhiều tiền vốn. Mặt khác, cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước ngày càng gay gắt, nhiều xí nghiệp buộc phải thường xuyên cải tạo và đổi mới kỹ thuật do đó cần nhiều tiền vốn.

Hai là, xem xét việc cung cấp tiền vốn từ lâu đã hình thành thói quen cấp phát hoặc ngân hàng cho vay. Nhưng nguồn vốn theo cấp phát hay vay ngân hàng không đảm bảo đáp ứng hết nhu cầu ngày càng tăng về vốn và cũng chưa đạt hiệu quả tốt nhất....

Ba là, thể hiện yêu cầu quy luật vận động của tiền vốn trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, phần nào giải quyết được mâu thuẫn cung cầu tiền vốn.

Những hạn mục ghi trên mặt cổ phiếu

Cổ phiếu, phát hành công khai cần có yêu cầu chặt chẽ. Không những chất lượng cổ phiếu tốt, in đẹp, quan trọng hơn là những điều ghi trên mặt cổ phiếu cần có quy định rõ ràng. Nói chung, trên mặt phiếu ghi những điều sau đây : 1/ tên, trụ sở công ty; 2/ Số và ngày cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; 3/ Số lượng cổ phần và loại cổ phần; 4/ mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu; 5/ tên cổ đông đối với mỗi cổ phiếu ghi trên; 6/ tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần; 7/ chữ ký mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty; 8/ số đăng ký tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu; 9/ đối với cổ phiếu của cổ phần ưu đãi còn có một số nội dung khác theo quy định lại các điều 55, 56, 57 luật Doanh nghiệp Việt Nam ban hành 12 - 06 - 1996.

Đặc điểm của cổ phiếu

Có tính quyết sách. Người có cổ phiếu phổ thông có quyền tham gia đại hội cổ đông, bầu cử ban quản trị tham gia quyết sách quản lý kinh doanh xí nghiệp, quyền lợi lớn hay nhỏ tuỳ theo số lượng cổ phiếu.

Có thể đổi tiền mặt. Cổ phiếu có thể chuyển nhượng bất kỳ lúc nào giao dịch ở thị trường, biến thành tiền giấy.

Giá cả và giá trị mặt phiếu không khớp nhau. Cổ phiếu là đối tượng giao dịch, giống như hàng hoá, có loại giá cả này chịu ảnh hưởng tình hình kinh doanh của xí nghiệp và chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, luôn luôn thay đổi, tăng giảm lớn, không khớp với giá trị mặt cổ phiếu. Sự không khớp ấy tạo điều kiện hoạt động cho người đầu cơ.

Rủi ro. Cổ phiếu đã mua không thể trả lại vốn cũ. Người đầu cơ cổ phiếu có thể nhận được thù lao dự kiến hay không hoàn toàn phụ thuộc vào doanh lợi của xí nghiệp quyết định, lãi nhiều chia nhiều, lãi ít chia ít, không lãi không chia, cùng chịu thiệt hại, bị phá sản khó có thể giữ nguyên vốn. Vì vậy, người đầu cơ cổ phiếu thường chịu rủi ro nhất định.

Quyền lợi của người có cổ phiếu nói chung Người có cổ phiếu nhìn chung có nhiều quyền lợi nhưng cơ bản có một số quyền sau : 1/ Bầu cử ban quản lý, quyền tham gia quản lý kinh doanh xí nghiệp; 2/ Quyền nhận lãi cổ phiếu và hoa hồng; 3/ Quyền bán và thế chấp cổ phiếu; 4/ Ưu tiên nhận thưởng; 5/ Gánh chịu rủi ro, chịu trách nhiệm kinh tế nhất định; 6/ Có các quyền cổ phiếu về luật hình sự khác. Cần làm rõ là, khi cổ phiếu chuyển nhượng cho người khác, người có cổ phiếu mới còn phải làm thủ tục “sang tên” để trở thành cổ đông mới có thể hưởng quyền lợi cổ đông : trước khi trở thành cổ đông, không có quyền tham gia quản lý kinh doanh xí nghiệp và phân phối lợi ích.

Phân loại cổ phiếu

Xét theo khả năng chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường thứ cấp, cổ phiếu gồm hai loại : cổ phiếu ký danh và cổ phiếu vô danh.

Cổ phiếu kí danh là loại cổ phiếu ghi rõ tên tuổi, địa chỉ. Chúng không được phép tự do chuyển nhượng và mua bán trên thị trường thứ cấp. Khi muốn chuyển nhượng phải được sự đồng ý của đại hội đồng cổ đông. Với những cổ đông sang lập ra công ty cổ phần thì nắm giữ cổ phiếu đó.

Cổ phiếu vô danh : là cổ phiếu không ghi rõ tên tuổi, địa chỉ của người nắm giữ cổ phiếu. Nó có khả năng được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường thứ cấp.

Xét theo địa vị pháp lý của cổ đông trong công ty có cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường.

Cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu mà mức lợi tức cổ phần dành cho cổ đông nắm giữ nó được công bố trước hàng năm hoặc ổn định trong một số năm, lợi nhuận kinh doanh cuối cùng của công ty không ảnh hưởng đến lợi tức công bố trước. Họ không được phép tham gia vào việc thảo luận và quyết định các vấn đề đặc biệt quan trọng trong công ty ( không được là thành viên hội đồng quản trị,.. )

Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu mà người nắm giữ nó được hưởng lợi tức cổ phần phụ thuộc vào kết quả kinh doanh cuối cùng của công ty cổ phần, là người hưởng lợi sau cùng khi công ty trả hết nợ nần, thanh lý tài sản, trả lợi tức cho cổ đông ưu đãi,... Ngược lại họ có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong công ty như chia lợi tức cổ phần, sử dụng lợi nhuận ròng của công ty.

Là một loại chứng khoán có giá là một giấy chứng nhận nợ của người vay vốn muốn thu góp vốn và đảm bảo trả lãi với lãi suất, thời hạn nhất định, và trả vốn gốc trong thời hạn nhất định. Trái phiếu thường chỉ loại trái phiếu có thời hạn trung dài hạn trên một năm.

Nhìn chung trái phiếu có đặc điểm sau đây : 1/ Có thể trong cùng một điều kiện, một thời gian thu góp số vốn lớn của nhiều người đầu tư; 2/ Sau một thời hạn nhất định trả lại vốn và lãi theo định kỳ; 3/ Chủ nợ xem xét tình hình thực tế thị trường tự do chuyển nhượng trái phiếu của họ.

Quyền lợi của người có trái phiếu : người có trái phiếu nói chung có 4 quyền lợi sau : 1/ Được nhận thù lao lãi suất trái phiếu và cách trả lãi là một trong những điều kiện trái phiếu, vì vậy người mắc nợ cần giải quyết theo quy định, người có trái phiếu dựa theo quy định đã có, nhận thù lao theo điều kiện thời hạn; 2/ Thu hồi vốn, kim ngạch mặt phiếu, cách trả và thời hạn của trái phiếu là những điều kiện cơ bản của trái phiếu, người mắc nợ cần phải trả đúng thời hạn trái phiếu, không được tuỳ tiện kéo dài; Người có trái phiếu có quyền thu hồi vốn theo thời hạn. Có lúc trả vốn trái phiếu bằng cách chuộc trước thời hạn hoặc trả từng đợt theo kiểu rút thăm; 3/ Nhượng lại. Phần lớn trái phiếu thuộc loại nhượng lại, vì vậy người có trái phiếu có quyền chi phối, tuỳ theo nhu càu có thể chuyển nhượng hoặc bán; 4/ Rút vốn. Khi người mắc nợ kéo dài trả nợ và sẽ bán hết tài sản, người có “trái phiếu thế chấp” được ưu tiên nhất, “trái phiếu có thế chấp” xếp thứ hai, người có “trái phiếu phụ thuộc” xếp thứ ba.

* Các loại trái phiếu :

- Khi căn cứ vào mục đích phát hành và người phát hành ta có trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty.

Trái phiếu chính phủlà một công cụ vay nợ trung và dài hạn của chính phủ, người đứng ra vay nợ là chính phủ với một mục đích huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để bù đắp thâm hụt ngân sách triền miên đồng thời giúp chính phủ có nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng... loại trái phiếu này có tín nhiệm cao, người có trái phiếu sau một thời gian thu lại vốn theo kim ngạch ghi trên mặt phiếu và nhận được tiền thù lao nhất định. Với những trái phiếu chính quyền trung ương thì có mức độ an toàn hơn là trái phiếu chính quyền địa phương nhưng lại có lãi suất cao hơn vì không bị đánh thuế thu nhập, nhìn chung lãi suất của trái phiếu chính phủ là thấp. Với nhiều kỳ hạn khác nhau, trái phiếu chính phủ có thể có kỳ hạn là 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 1 năm đến 2, 3 năm... bên cạnh độ rủi ro là không cao.

Trái phiếu công tylà công cụ vay nợ trung, dài hạn của công ty, huy động vốn cho sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty bảo đảm sẽ trả vốn (giá trị trên mặt phiếu) trái phiếu trong thời hạn nhất định và trả lãi suất trái phiếu theo thời hạn ước định (thời hạn trả lãi) và lãi suất quy định. Có loại trái phiếu được phát hành thấp hơn giá trị mặt phiếu, còn có thể trả vốn gốc trước thời hạn. Nội dung phát hành cần phải làm theo luật pháp, hạn ngạch trên mặt phiếu là định ngạch và có thể tự do chuyển nhượng. Nếu có trái phiếu công ty có đảm bảo cần ghi rõ hai chữ “đảm bảo” được cơ quan chủ quản cho phép và phép kiểm chứng.

So với vốn vay từ ngân hàng, chứng từ thương nghiệp phát hành, phát hành cổ phiếu mới và những nguồn vốn khác, trái phiếu công ty có những ưu điểm trội hẳn nhất định, cụ thể là : 1/ Có nguồn vốn rộng, thời hạn khá lâu, bổ sung cho ngân hàng thiếu vốn và thời gian cho vay ngắn hạn; 2/ lãi suất ngân hàng vay có lúc thay đổi, lãi suất trái phiếu cố định và nói chung cao hơn lãi suất công trái chính phủ; 3/ Trên thị trường phát hành chứng từ thương nghiệp, xí nghiệp nhỏ dùng lãi suất cao cạnh tranh với xí nghiệp lớn vì vậy không kinh tế bằng phát hành trái phiếu. Xí nghiệp lớn có kim ngạch lớn và lãi suất thấp; 4/ so với phát hành cổ phiếu thì phát hành trái phiếu thủ tục giản đơn và co giãn lớn; 5/ trong tình hình tiền lệ lạm phát, phát hành trái phiếu chỉ cần đến thời hạn trả lại vốn theo mặt phiếu, vì vậy đã trút rủi ro lạm phát cho người mua trái phiếu.

Giữa trái phiếu công ty và cổ phiếu công ty có sự giống khác rõ rệt. Giống nhau, cụ thể là : 1/ Trái phiếu và cổ phiếu đều là một hoặc chứng khoán có giá; 2/ nhìn từ phía con nợ đều là những phương tiện thu góp vốn cho nhu cầu tiền vốn; 3/ nhìn từ phía chủ nợ đều là phương tiện đầu tư để có được thù lao nhất định. Sự khác nhau,mục đích phát hành khác nhau. Phát hành cổ phiếu là nhu cầu của công ty cổ phần thu góp tư bản tự có; phát hành trái phiếu phần lớn là nhu cầu tăng thêm tư bản; 2/ tư cách người có phiếu không giống nhau. Người có cổ phiếu là cổ đông của công ty cổ phần, trái phiếu chỉ là bằng chứng vay tiền, chứng nhận là một loại chủ nợ không liên quan đến những quyền sở hữu khác; 3/ quan hệ giữa người có phiếu và xí nghiệp khác nhau. Người có cổ phiếu với doanh nghiệp là quan hệ đầu tư, có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp và chịu rủi ro đầu tư; người có trái phiếu với doanh nghiệp là quan hệ vay, cho vay, không có quyền tham gia quản lý nói chung không chịu rủi ro đầu tư. 4/ Cách thu hồi vốn có khác nhau cổ phiếu nói chung không thể rút lui chỉ có thể chuyển nhượng, trái phiếu đến thời hạn đòi vốn ở người phát hành; 5/ Sự ổn định về lợi ích không giống nhau. Lợi ích của người có cổ phiếu tuỳ theo sự phát triển lợi ích của công ty; người có trái phiếu được nhận thù lao đầu tư cố định, có ưu điểm về thời gian hơn cổ phiếu. Khi doanh nghiệp phá sản, trái phiếu cần được bồi thường trước tiên nên càng có ưu tiên hơn.

Khi phát hành trái phiếu công ty có những lợi ích hơn so phát hành cổ phiếu công ty, cụ thể là : 1/ Không thay đổi quan hệ sở hữu tài sản giữa người nắm giữ phiếu và doanh nghiệp; 2/ thủ tục tiện lợi, giản đơn; 3/ tính co giãn lớn : trái phiếu công ty là nợ của công ty với bên ngoài, đến hạn phải trả vốn, nếu cần có thể phát hành thêm trái, cổ phiếu là một phần tài sản của công ty, mỗi khi công ty không cần tiền vốn này cũng không thể trả lại, không được co giãn; 4/ Có thể trút rủi ro ( khi tiền tệ lạm phát ) cho người khác; 5/ Có thể trả nợ trước thời hạn. Bên cạnh đó, việc phát hành trái phiếu công ty cũng có nhược điểm so với việc phát hành cổ phiếu công ty. Đó là : 1/ có nhiều điều kiện ràng buộc. Luật pháp có những hạn chế nhất định đối với công ty phát hành như hạn ngạch cao nhất trái phiếu phát hành, tài sản đảm bảo trên trái phiếu phát hành, bố trí quỹ trả nợ, hạn chế tiếp tục vay các khoản vay dài hạn khác.... Công ty vay nợ cần làm đúng theo pháp luật; 2/ gánh nặng về tài chính. Lãi suất trái phiếu công ty cố định, nếu doanh nghiệp kinh doanh không giỏi, tình hình thị trường trở nên xấu, lãi của công ty giảm, chi phí cho lãi suất cố định ấy sẽ trở thành gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp..

Khi căn cứ vào phương thức thanh toán các khoản vay vốn gốc và lãi cho trái phiếu ta có : trái phiếu vay đơn; trái phiếu vay trả cố định; trái phiếu coupon; trái phiếu triết khấu; trái phiếu vĩnh cửu

Trái phiếu vay đơn trái phiếu mà toàn bộ tiền vốn gốc và lãi sẽ được thanh toán một lần đến thời kỳ đáo hạn.

Trái phiếu vay trả cố địnhloại trái phiếu mà người mua trái phiếu sẽ được thanh toán một khoản cố định đều nhau trong suốt kỳ hạn của trái phiếu đó. Ví dụ, mua trái phiếu mệnh giá 1000 $, thời hạn 20 năm, mỗi năm nhận một khoản cố định 100$/ năm và đến hết 20 năm sẽ trả hết là 2000$ mà không có trả gốc nữa.

Trái phiếu Coupon tiền lãi của trái phiếu được trả hàng năm, tiền vốn gốc được trả vào ngày đáo hạn. Ví dụ, mua trái phiếu mệnh giá 1000$ trong 10 năm, đáo hạn nhận lại 1000$ là tiền coupon, lãi suất nhận được là lãi suất coupon.

Trái phiếu triết khấulà trái phiếu mà ở đó người mua trái phiếu sẽ trả cho người bán với giá mua thấp hơn mệnh giá nhưng đến ngày đáo hạn người mua được thanh toán trả lại theo mệnh giá. Khoản chênh lệch đó chính là lãi suất. Như vậy, đây là hình thức trả lãi trước ngay tại thời điểm mua.

Trái phiếu vĩnh cửu là loại trái phiếu mà ở đó người mua nó không bao giờ được thanh toán tiền gốc. Nó giống trái phiếu cố định ở điểm : người mua nhận khoản cố định hàng năm và không nhận được khoản gốc cho đến khi người sở hữu trái phiếu vĩnh cửu chết đi mà không sang tên hay thừa kế. Vì thế nó có tên là trái phiếu vĩnh cửu.

0