Cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng ngân hàng và cơ sở lý luận về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Định nghĩa ngân hàng thương mại Ở một số nước: Ở Mỹ : NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính ( financial – Service Industry).[3] ...
Định nghĩa ngân hàng thương mại
Ở một số nước:
- Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính ( financial – Service Industry).[3]
- Ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.[3]
- Ở Ấn Độ: NHTM là nơi nhận các khoản ký thác để cho vay, tài trợ hay đầu tư [3]
- Ở Thổ Nhĩ Kỳ: NHTM là hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác.[3]
Ở Việt Nam:
Theo quy định tại điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/ QH 10) được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành thì: “ NHTM là một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. [1]
Như vậy, có thể phát biểu khái niệm về NHTM: NHTM là một DN kinh doanh tiền tệ, là một TCTD thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.
Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển:
- Là “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi.
- Đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì đã đáp ứng được nhu cầu vốn để duy trì liên tục quá trình tái sản xuất xã hội.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhờ tận dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi vào quá trình cho vay sinh lời
Chức năng quản lý ngân quỹ cho xã hội
Với chức năng này, NHTM nhận tiền gửi của công chúng, DN và các tổ chức khác, vừa đảm bảo an toàn tài sản, vừa đáp ứng nhu cầu rút tiền của KH. Đồng thời NH cam kết chi trả một mức lãi suất nhất định cho KH tùy thuộc vào loại hình gửi tiền.
Qua việc thực hiện chức năng này thì NH tạo được nguồn vốn để thực hiện chức năng tín dụng, và còn là cơ sở để Ngân hàng thực hiện chức năng thanh toán.
Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán
Để thực hiện chức năng này, NH cung cấp cho KH các phương tiện thanh toán không sử dụng tiền mặt như: thẻ thanh toán, ủy nhiệm chi, séc,…
Trên cơ sở KH mở tài khoản tiền gởi tại NH, thay mặt cho KH, NHTM trích tiền trên tài khoản trả cho người được hưởng hoặc nhận tiền vào tài khoản theo ủy nhiệm chi của KH.
Hoạt động trên của NHTM mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế:
- Thúc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì chức năng này đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
- Tiết giảm tiền mặt lưu thông dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt.
Chức năng tạo ra tiền NH trong hệ thống NH hai cấp
Quá trình tạo tiền của NHTM được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống NH, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống NHTW. Với khoản tiền gửi nhận được ban đầu, hệ thống NHTM thông qua quá trình cho vay bằng chuyển khoản, kết hợp với thanh toán không dùng tiền mặt, có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn gấp nhiều lần, do đó tạo thêm “bút tệ” cho lưu thông.
Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác
NH có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho các DN, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, NH còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho KH, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi đó vào tài khoản cho KH, hoặc có khi NHTM còn thực hiện việc mua, bán các chứng khoán cho khách hàng, thu hồi chứng khoán đến hạn…
Hơn nữa, NH còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như:
- Dịch vụ bảo quản an toàn vật tư có giá của KH. Dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá bao gồm: dịch vụ cho thuê két sắt, bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản an toàn các giấy tờ có giá.
- Dịch vụ cho thuê két ngân buổi tốt (Night safe): NH lắp đặt hệ thống két đặc biệt trước cửa NH, KH thuê dịch vụ này được phép cất giữ tiền mặt hay séc để đảm bảo an toàn vào buổi tối khi NH đã đóng cửa.
- Dịch vụ tín thác hoặc ủy thác Ngân hàng (Trust services)
Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ NH quốc tế
Một trong những chức năng quan trọng nhất do các NH thực hiện trong việc tham gia vào nghiệp vụ NH quốc tế là tài trợ xuất nhập khẩu và nền thương mại giữa các quốc gia. Giống như thương mại trong nước, hoạt động ngoại thương đòi hỏi các phương pháp tài trợ khác nhau, hoạt động ngoại thương bao gồm ứng tiền trước, tài khoản mở, ủy thác, nhờ thu và thư tín dụng, tín dụng chiết khấu hối phiếu, bảo lãnh, mua và bán séc du lịch…).
Ngoài ra, các NHTM mở rộng nghiệp vụ NH quốc tế để phục vụ cho những khách hàng nước ngoài đầu tư vào trong nước cũng như những KH nội địa muốn mở rộng hoạt động kinh doanh ra nước ngoài.
Lý luận chung về tín dụng
Khái niệm và bản chất của tín dụng
Khái niệm: Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời và tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế, xã hội. Từ “tín dụng” có nguồn gốc từ tiếng Latinh có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm, dựa trên sự tin tưởng, tín nhiệm đó sẽ thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất trong một thời gian nhất định, ngay cả những giá trị vô hình như tiếng tăm, uy tín để đảm bảo, bảo lãnh cho sự vận động của một lượng giá trị nào đó.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng như sau: “ Tín dụng là một phạm trù kinh tế chỉ mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó có một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả vốn gốc và lãi sau một thời gian nhất định” [4]
Mặc dù quan hệ tín dụng được biểu hiện qua các phương thức rất đa dạng và phong phú, nhưng nó vẫn mang ba đặc trưng cơ bản sau:
- Chỉ làm thay đổi quyền sử dụng, không làm thay đổi quyền sở hữu vốn.
- Thời hạn tín dụng được xác định dựa trên sự thỏa thuận giũa các bên tham gia quan hệ tín dụng.
- Chủ sở hữu vốn được nhận lại một phần thu nhập dưới dạng lợi tức tín dụng.
Chức năng của tín dụng
a. Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình cùng thống nhất trong sự vận hành của quan hệ tín dụng. Chức năng này làm cho tín dụng trở thành chiếc cầu nối giữa cung – cầu vốn trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng này tín dụng đã trực tiếp tham gia điều tiết các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ cá nhân, các đơn vị kinh tế đến bổ sung kịp thời cho những cá nhân, đơn vị thiếu vốn, nói cách
- 1 Bán lẻ: vào trước, ra trước
- 2 Ứng dụng hỗn hợp
- 3 Một số hệ chuyên gia
- 4 Quality Enhancement for Compressed Images and Videos
- 5 Cơ sở lí luận về kiểm toán độc lập
- 6 Hùng biện
- 7 Thảo luận thực hiện nghiên cứu thị trường
- 8 Góp phần tìm hiểu người nông dân Việt Nam thời đổi mới
- 9 Phương hướng nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
- 10 NASA (National Aeronautics and Space Administration)