Cơ sở lý luận nghiên cứu mối quan hệ giữa trình độ học vấn và mức sinh
Một số khái niệm Việc nghiên cứu mức sinh chiếm một vị trí trung tâm trong nghiên cứu dân số vì một loạt lý do sau: sinh đóng vai trò thay thế và duy trì về mặt sinh học của xã hội loài người, việc tăng dân số phụ thuộc ...
Một số khái niệm
Việc nghiên cứu mức sinh chiếm một vị trí trung tâm trong nghiên cứu dân số vì một loạt lý do sau: sinh đóng vai trò thay thế và duy trì về mặt sinh học của xã hội loài người, việc tăng dân số phụ thuộc hoàn toàn vào việc sinh đẻ. Bất kỳ một xã hội nào cũng tồn tại do việc thay thế thế hệ này bằng thế hệ khác thông qua sinh đẻ. Nếu việc thay thế số lượng dân số không phù hợp, tức là số chết trong công đồng nào đó liên tục nhiều hơn số sinh, xã hội đó sẽ đương đầu với nguy cơ diệt vong. Mặt khác nếu việc gia tăng dân số quá nhanh cũng sẽ tạo ra hàng loạt các vấn đề kinh tế - xã hội và chính trị cho đất nướcphải giải quyết. Quá trình thay thế của xã hội thông qua sinh đẻ là quá trình rất phức tạp. Ngoài giới hạn về mặt sinh học, hàng loạt các yếu tố xã hội, văn hoá, tâm lý cũng như kinh tế và chính trị có ảnh hưởng quyết định mức độ và sự khác biệt mức sinh.
Trong thập kỷ 60, người ta nhận thấy rõ ràng là nhân tố chính trong việc tăng dân số của các nước đang phát triển cũng như các nước phát triển là mức sinh. Tỷ lệ gia tăng dân số trong nhiều nước hiện tại phụ thuộc vào mức sinh và mức chết hơn là di dân quốc tế. Trong các nước đang phát triển, mức độ chết đã giảm xuống đáng kể và hy vọng sẽ giảm nữa trong tương lai, trong khi đó mức sinh lại không giảm một cách tương ứng dẫn đến việc tăng dân số quá nhanh. Đó là mối đe doạ đối với chương trình phát triển kinh tế-xã hội. Mức sinh còn được quyết định chủ yếu bởi cấu trúc tuổi của dân số.
Khả năng sinh đẻ là khả năng sinh lý của một người đàn ông, một người phụ nữ hoặc một cặp vợ chồng có thể sinh ra được ít nhất một con.
Mức sinh là biểu hiện thực tế của khả năng sinh đẻ. Do tính chất sinh học quy định, không phảI độ tuổi nào con người cũng có khả năng sinh đẻ mà chỉ ở một khoảng tuổi nhất định mới có khả năng này khoảng tuổi đó gọi là thời kỳ có khả năng sinh sản. Chẳng hạn đối với phụ nữ khoảng tuổi đó bắt đầu khi xuất hiện kinh nguyệt và kết thúc mãn kinh tức là khoảng (15-49).
Sự kiện sinh con sống là sự kiện đứa trẻ tách ra khỏi cơ thể người mẹ và có biểu hiện của sự sống như hơI thở, tim đập, cuống rốn rung động hoặc có những cử động tự nhiên của bắp thịt.
Để có một cái nhìn cụ thể hơn về mức sinh đứng trên các khía cạnh khác nhau cảu quá trinh sinh sản chúng ta phải tiến hành phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức sinh và các thước đo đánh giá về mức sinh.
Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh và các yếu tố ảnh hưởng
Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh
Trong dân số học, khi đánh giá tình hình sinh đẻ, thông thường người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Tỷ số trẻ em so với phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ
Tỷ số trẻ em- phụ nữ (CWR) là tỷ số giữa số trẻ em dưới 5 tuổi và số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15-49)
Tỷ số trẻ em – phụ nữ phản ánh được mức sinh trung bình trong thời kỳ 5 năm hạn chế một phần sai số do báo cáo thiếu về số sinh trong năm đầu
Đây là chỉ tiêu đánh gia mức độ sinh của dân cư mà không cần số liệu chi tiết cụ thể. Nhưng đây là chỉ tiêu có cách đo lường rất thô, mức độ chính xác không cao.
* Tỷ suất sinh thô (CBR)
Đây là chỉ tiêu đo mức sinh đơn giản và thường được sử dụng. Công thức của nó được xác định như sau:
Trong đó:
B là số trẻ em sinh ra trong năm
P là dân số trung bình trong năm
Tỷ suất sinh thôlà số trẻ em sinh sống được trên 1000 dân số trtung bình trong năm.
Đây là chỉ tiêu thô về mức sinh, bởi vì mẫu số bao gồm cả thành phần dân số không tham gia vào quá trình sinh sản : đàn ông trẻ em và những người già. Mộu số cũng bao gồm cả những thành phần không hoạt động tình iục hoặc vô sinh.
+ Ưu đIểm : Đây là chỉ tiêu quan trọng của mức sinh nó được dùng trực tiếp để tính tỷ lệ tăng dân số, tính toán nhanh đơn giản và cần rất ít số liệu.
+ Nhược điểm : không nhạy cảm bởi sự thay đổi của mức sinh, nó bị ảnh hưởng bởi cấu trúc theo giới tuổi của dân số, phân boó mức sinh ở các tuổi
trong các kỳ có khả năng sinh sản, tình trạng hôn nhân.
* Tỷ suất sinh chung (GFR)
Tỷ suất sinh chung là tỷ số giữa số trẻ em sinh ra sống được trong nămvới số phụ nữ trung bình trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) của năm đó nhân với 1000.
+ Ưu điểm: đây là chỉ tiêu dễ tính toán , mẫu số đã dường như loại bỏ hết những người không liên quan trực tiếp đến hành vi sinh sản như: nam giới, trẻ em và người già
+ Nhược điểm: Chỉ tiêu này chưa thật sự hoàn hảo vì tất cả những phụ nữ không có chồng đều có mặt trong mẫu số, hơn thế nữa không tính đến mức độ khác biệt về mức độ sinh ở các độ tuổi khác nhau.
* Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi (ASFRx)
Đối với phụ nữ tần suất sinh khác nhau đáng kể từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, nhóm tuổi này sang nhóm tuổi khác. Do vậy để biểu thị mức sinh sản của phụ nữ theo từng độ tuổi, nhóm tuổi khác nhau người ta thường dùng chỉ tiêu tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi hoặc nhóm tuổi “x” nào đó.
ASRFx là số trẻ em sinh ra sống trên 1000 ở độ tuổi x hay nhóm tuổi x nào đó
Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ tương quan giữa số trẻ em sinh ra trong năm của các bà mẹ ở các độ tuổi hay nhóm tuổi khác nhau so với tổng số phụ nữ ở độ các tuổi đó. ASFRx đòi hỏi số liệu phải chi tiết phải xác định số lượng trẻ em sinh ra trong năm ở độ tuổi của các bà mẹ
Thông thương người tính tỷ suất sinh đặc trưng cho từng nhóm tuổi của phụ nữ. Qua đó, ta có thể thấy được mức độ sinh đẻ của phụ nữ qua từng nhóm tuổi. Tuổi sinh đẻ của phụ nữ bị chi phối bởi yếu tố sinh học. Qua thực tế ta thấy cường độ sinh cao nhất ở tuổi 25-35 sau đó khác nhau sinh sản giảm và nhiều yếu tố chi phối.
+ Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi được xác định theo công thức sau:
Trong đó: Bfx số trẻ em của phụ nữ ở độ tuổi x sinh ra sống được
Pwx số phụ nữ trung bình ở độ tuổi trong năm
+ ưu điểm:ASFRx loại trừ sự khác biệt về mức sinh của từng nhóm tuổi và mang lại nhiều thông tin về hành vi sinh đẻ hơn bất kỳ một chỉ tiêu đo lường về mức sinh nào khác.
+ Nhược điểm: Khi so sánh mức sinh giữa hai vùng, hai quốc gia và chỉ tiêu này tương đối phức tạp và cần phải có nhiều chỉ số.
* Tổng tỷ suất sinh (TFR)
Đây là thứơc đo mức sinh được các nhà dân số học sử dụng rộng rãi nhất khi đã biết tỷ suấ sinh đặc trưng theo tuổi hoặc nhóm tuổi thì việc xác định tổng tỷ suất sinh là rất đơn giản
Tổng tỷ suất sinh phản ánh số trẻ em trung bình mà một phụ nữ hoặc một thế hệ phụ nữ có thể có trong suốt cuộc đời sinh sản của mình.
Trong đó: n là số độ dài khoảng tuổi khảo sát
+ Ưu điểm: TFR có cách đo đơn giản mà không bị phụ thuộc vào cấu trúc tuổi. Mặc dù, TFR là chỉ tiêu không có thực trong thực tế nhưng qua đó ta có thể thấy được số con trung bình của một năm phụ nữ.
+ Nhược điểm: TFR đòi hỏi phải có số liệu về số trểm sinh ra theo tuổi của các bà mẹ và số phụ nữ theo nhóm tuổi mà những số liệu này chỉ có thể có được từ hệ thông đăng ký hay tổng điêù tra dân số. Hơn nữa nó không cung cấp thông tin giữa các nhóm tuổi.
* Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai
Để đánh giá mức độ của việc sử dung các biện pháp kế hoạch hoá gia đình. Người ta thường sử dụng chỉ tiêu các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai.
Trrong đó: Ux những cặp vợ chồng trong độ tuổi x (15-49)
F15-49 số phụ nữ trong độ tuổi từ 15-49 có chồng
CPR dùng để phản ánh số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hiên đang có chồng áp dụng các biện pháp KHHGĐ. Nó được tính vào thời điểm nào đó cho tất cả các biện pháp tránh thai hoặc chỉ tính riêng cho các BPTT hiện đại. Tuy nhiên chỉ tiêu này thường khó phản ánh chính xác, vì ta chỉ có thể thống kê được số người hiện đang sử dụng các BPTT hiện đại, còn đối với các BPTT truyền thống thì việc thống kê chính xác được số người áp dụng là một điều khó khăn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này vẫn được áp dụng phổ biến.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh
Mức sinh bị ảnh hưởng bởi nhiều biến số trực tiếp hoặc gián tiếp. Bao gồm những biến số sinh học, mức chết trẻ sơ sinh, vai trò của phụ nữ, trình độ học vân, thu nhập và nhiều biến khác. Giải thích mức sinh có thể giới hạn phạm vi một người phụ nữ hoặc phạm vi một tổng thể dân cư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố xã hội và kinh tế.
Mức sinh là biến phụ thuộc, chịu ảnh hưởng của nhiều biến độc lập khác. Hệ thống biến số có vai trò trung gian giữa các biến số hành vi và mức sinh bao gồm:
- Những biến số trung gian
- Những biến sốcó liên quan đến đặc tính gia đình và hoàn cảnh gia đình. Đây là nhóm biên số thứ hai
Trong những biến số này gồm nhiều biến số
+ Tuổi là một trong những biến số quan trọng nhất giải thích mức sinh cuả cái nhân trong phạm vi vi mô. Cơ cấu tuổi là một trong những biến số quan trọng khi giải thích mức sinh trong phạm vi vĩ mô. Trong cả hai phạm vi tuổi liên quan chặt chẽ đến các biến trung gian: tuổi liên quan đến kết hôn, ly hôn, goá, dạy thì, tần suất giao hợp, xác suất thụ thai và mãn kinh
+ Mức chết ảnh hưởng đến mức sinh qua một số cơ chế. Thứ nhất ảnh hưởng đến số người trong độ tuổi sinh đẻ qua cơ cấu tuổi giới tính. Tại phạm vi vi mô số con một cặp vợ chồng đẻ ra có thể chịu ảnh hưởng bởi xác suất sông qua độ tuổi sinh đẻ, không có vợ hoặc chồng chết sớm. Thứ hai, mức chết trẻ sơ sinh và mức chết trẻ em có ảnh hưởngtới mức sinh qua cơ chế sinh học và hành vi.
+ Ngân sách, tài sản, thời gian của một gia đình cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Vì khi có con đòi hỏi phải có cả vật chất và thời gian, yêu cầu chi phí và thuận lợi khi có con trong gia đình có thể ảnh hưởng đến mức sinh. Một trong những chi phí quan trọng nhất khi tính chi phí có con là chi phí cơ hộiu của người mẹ
+ Địa vi theo nhiều nhà nghiên cứu là nhân tố quyết định chủ chốt ảnh hưởng đen mức sinh. Địa vị của phụ nữ có thể ảnh hưởng đến mức sinh thông qua tuổi kết hôn, những lựa chọn sinh con trong hôn nhân và mức sinh tự nhiên. Trình độ học vấn, sự tham gia vào lực lượng lao đông, khả năng quyết định trong gia đình và tình trạng sức khoẻlà những yếu tố chủ yếu khi nghiên cứu địa vị của phụ nữ và mức sinh.
+ Thu nhập là một biến số được nghiên cứu trong quan hệ với mức sinh.Thu nhập có thể ảnh hưởng đến mức sinh bằng nhiều cách khác nhau. Nếu coi con cáI như là của cảicho tiêu dùng thì thu nhập càng cao thì số con moang muốn càng cao. Song có những vấn đề khác với giả thiết này là thu nhập càng cao thì bố mẹ càng muốn con có chất lượng (trình độ học vân và sức khoẻ) càng cao, con không phải là một vật chất cho tiêu dùng mà con là khả năng cho sản xuất, đóng góp cho ngân sách của gia đình. Thu nhập cao do có thể có nhiều con làm việc. Thứ ba, khi gộp thu nhập của vợ chông trong tổng nguồn tàI sản gia đình sinh đẻ nuôi dạy còn ảnh hưởng đến công việc của vợ thì mức sinh và thu nhập càng phức tạp.
+ Sở thích cũng ảnh hưởng đến mức sinh
- Biến xã hội gồm 2 loại biên số. Thứ nhất các biến số tình trạng chính trị,chế độ xã hội, chế độ kinh tế. Loại biến số thứ hai là những biến số có liên quan đến chính sách và chương trình có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến dân số hoặc một sốthành phầncủa nó. Có thể nói nhân tố của mức sinh là rất đa dạng và được chia thành ba nhóm: biến số trung gian, biến số gia đìng và biến số hoàn cảnh xã hội. Trong mỗi nhóm có nhiều biến số khác nhau ảnh hưởng theo nhiều hướng. Chính vì thế mà đi sâu vào nghiên cứu một nhântố để hiểu rõ hơn vêg sự tác động của nó tới mức sinh là rất cần thiết.
Các khái niệm
* Khái niệm về giáo dục
Giáo dục có thể định nghĩa một cách khái quát nhất là tất cả các dang học tập của con người. ậ đâu có sự hoạt đọng và giao lưu nhằm truyền đạt và lĩnh hội những giá trị và kinh nghiệm xã hội thì ở đó có giáo dục. Theo một nghĩa hẹp hơn, giáo dục là một quá trình được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch nằhm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội của loaì người. Nơi tổ chức giáo dục một cách có hệ thống, có kế hoạch chặt chẽ là nhà trường. ở đây, việc tổ chức quá trình giáo dục chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên môn đảm nhiệm đó là những thầy giáo, những nhà giáo dục.
Bên cạnh đó giáo dục còn được tiến hành ở ngoài nhà trường, do các tổ chức và các cơ sở xã hội khác nhau thực hiện như các tổ chức kinh doanh các tôn giáo đoàn thể, các cụm dân cư.. . Người ta phân chia giáo dục thành hai loại : giáo dục chính quy và giáo dục không chính quy. Giáo dục chính quy là giáo dục theo một chương trình đã được Nhà Nước chuẩn hoá, còn giáo dục không chính quy có chương trình tuỳ theo mục đích và yêu cầu của người học. Giáo dục chính quy thường được tổ chức trong các nhà trường, còn giáo dục không chính quy được tổ chức ở ngoài nhà trường ..
* Khái niệm về trình độ văn hoá
Trình độ văn hoá là toàn bộ những hiểu biết về vật chất và tinh thẩn trong quă trình con người, cộng đồng, dân tộc, loàI người sinh sống và hoạt động. Những biểu hiện đó bao gồm cả kinh nghiệm, vốn sống, tri thức lẫn công cụ lao động, nhà ở ăn mặc rồi văn hoá nghệ thuật, kiến trúc và kỹ thuật, công nghệ tức là toàn bộ sự phong phú về tinh thần và vật chất của mỗi người và cả cộng đồng loài người
Trình độ học vấn thường được đobằng sự thành đạt, sự tích luỹ kiến thức ở mức độ nào đó trong xã hội. Song đo trình độ học vấn dường như chưa có chỉ tiêu tổng hợp cân sứng. Thông thường người ta sử dụng một số chỉ tiêu sau: tình trạng đi học của dân cư , tỷ lệ biết chữ , tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ học sinh trên 1000 dân, cơ cấu các lốp học, các cấp học. Tuy nhiên mỗi chỉ tiêu đều có một sức phản ánh và hạn chế riêng của nó.
Một số chỉ tiêu đánh giá về trình độ học vân và các yếu tố ảnh hưởng
Để có một cái nhìn cụ thể về một hiện tượng nào đó trong tự nhiên cũng như trong xã hội thì thông thương ngưòi ta hay xây dựng các chỉ tiêu để phản ánh tính chất đặc thù của nó, các chỉ tiêu đó có thể ở dạng tuyệt đối hoặc tương đối, tuỳ thuộc vào mục đích và cách nhìn của người nghiên cứu. Do vậy, việc nghiên cứu đã đưa ra các chỉ tiêu về trình độ học vân không nằm ngoài những cách trên.Thông thường để đánh giá về trình độ học vân ngươi ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
* Tỷ lệ ngươi biết chữ-tỷ lệ ngươi mù chữ.
Coi những chi tiết của nghiệp vụ thống kê không ảnh hưởng đáng kể (nhóm điều tra riêng , một tỷ lệ nhỏ không xác định) có thể coi chỉ tiêu tỷ lệ ngươi biết chữ-tỷ lệ ngươi mù chữ như một chỉ tiêu “kép” phản ánh hai bộ phận của một tổng thể luôn luôn bằng 100%. Nếu ta biết tỷ lệ biết chữ là A% thì tỷ lệ mù chữ sẽ là (100 - A%) và ngược lại tuỳ vào từng trường hợp cụ thể khi thì dùng tỷ lệ biết chữ khi thì lại dùng tỷ lệ mù chữ nhằm mục đích diễn đạt vấn đề thuận tiện hơn, sáng tỏ hơn.
* Số năm đi học trung bình
để tính được số năm đi học trung bình ngươi ta tính như sau: Số năm đI học trung bình = tuổi thôi đi học (theo giới) - tuổi bắt đầu đến trường (theo giới).
Khi tính toán về số năm đi học trung bình của toàn tỉnh thì ngươi ta tchia thành các khu vực khác nhau để tính toán thường thì ngươi ta hay chia theo khu vực nông thôn và thành thị, đồng thời tính chung cho toàn tỉnh. Từ đó so sánh giữa các mức độ khác nhau về chỉ tiêu đánh giá. Để tính được số năm đi học trung bình ngươi ta tính tuổi bắt đầu đi học của từng vùng và tuổi thôi học của vùng đó, sau đó số năm đi học trung bình bằng tuổi thôi học trừ đi tuổi bắt đầu đi học. Từ đó ta sẽ tinh được trình độ học vân của từng vùng. Bên cạnh đó để tính được số năm đi học trung bình ngươi ta có thể chia thành hai giới khác nhau đó là theo nam- nữ.
Tỷ suất đi học (CER)
Trong đó:
E là số ngươi đi học
P là dân số trung bình
Tỷ suất này phản ánh số ngươi đi học trung bình trong 1000 dân
* Tỷ suất đ học đặc thù
Trong đó:
Ei số người đi học cấp I
Px dân dân số tuổi x
Tỷ suất này phản ánh số ngươi đi học theo từng cấp bậc ứng với từng dộ tuổi
Mối quan hệ giữa trình độ học vân và mức sinh ở Thanh hóa
Mức sinh của phụ nữ phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó trình độ học vân là một trong những yếu tố tác động mạnh đến mức sinh. Hai yếu tố này có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau tức là khi trình độ học vân càng tăng thì mức sinh càng giảm và ngựơc lại, vì khi có trình độ học vấn ngươi ta sẽ có nhận thức sâu sác hơn về việc sinh đẻ có kế hoạch do vậy sẽ làm giảm mức sinh. Mối quan hệ giữa trình độ học vân và mức sinh thể hiện ở một số khía cạnh sau:
* Trình độ học vấn tác động đến mức sinh
Trình độ học vấn tuy không trực tiếp làm giảm mức sinh, nhưng nó có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến mức sinh, mức độ ảnh hưởng này có xu hướng tỷ lệ nghịch. Trong hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới, nhiều số liệu nghiên cứu về dân số cho thấy rằng trình độ học vân càng cao thì mức sinh càng giảm và ngược lại khi trình độ học vân càng thấp thì mức sinh càng tăng cao.
Mức độ ảnh hưởng của trình độ học vân vào mức sinh cũng phụ thuộc vào vùng địa lý, điều kiện văn hoá của vùng. Đặc biệt là trình độ học vân của phụ nữ mang lại tiềm năng cho cả lĩnh vực tăng và giảm sinh, thể hiện thông qua sự thay đổi hành vi sinh sản. Trình độ học vấn làm trì hoãn tuổi kết hôn, khoảng cach sinh giữa các phụ nữ có học vấn cao thì dài hơn so với phụ nữ có học vấn thấp, điều kiện và trình độ nuôI con có xu hướng tốt hơn ở những người phụ nữ có trình độ học vân cao hơn.
Trình độ học vấn còn liên quan đến tỷ lệ trẻ em bị tử vong, vì đối với những phụ nữ có trình độ học vân caothì được giáo dục và có kiến thức về sức khẻo và nuôi dạy con.
Phong tục tập quán ít tác động đến đối với những ni có trình độ học vân cao. Mặt khác, trình độ học vân khác nhau cũng mang lại sự thay đổi chậm chạp trong hành vi sinh sản từ việc loại bỏ những dự định về mức sinh. ĐIều này thường xẩy vì trình độ học vân làm thay đổi ý muốn có con trong nhiều cách. Những ngươi có trình độ học vân tự điều khiển được những tiềm năng của mình và ít bị phụ thuộc vào những quan niệm phong kiến về sự khác nhau giữa việc sinh con trai hay sinh con gái.
Với những lý do nêu trên ta có thể khảng định rằng đối với những người có trình độ học vân cao bao giờ cũng thích quy mô gia đình nhỏ và ngươi phụ nữ được hiểu như chiếc chìa khoá liên quan đến việc điều chỉnh mức sinh. Giáo dục dân số được coi như môi trương trung gian truyền đi những kiến thức hiện đại và cách sống mới đến mọi ngươi dân, để mở rộng thêm sự gần gũi với những tiến bộ về việc sử dụng các BPTT, cũng như kiến thức và trách nhiệm của từng ngươi dân với sự bùng nỗ dân số.
Mối quan hệ giữa trình độ học vân và mức sinh không chỉ đơn thuần là mối quan hệ một chiều mà đó là mối quan hệ hai chiều rất rõ nét tức là còn có sự tác động giữa mức sinh đến trình độ học vân. Bởi vì trình độ học vân đạt được chính là kết quả của một hệ thống giáo dục có quy mô. Để đạt được trình độ học vân càng cao đòi hỏi phảI có một hệ thống giáo dục cao tương xứng. Dân số luôn là đầu vào của giáo dục quan hệ cũng giống nhưquan hệ giữa nguyên liệu và sản phẩm vậy. Muốn có sản phẩm tốt với chất lượng tốt và khối lượng lớn thì đòi hỏi công nghệ phảI hiện đại và quy mô phải đủ lớn thì mới đáp ứng được các yêu cầu đó. Trong những năm gần đây tốc độ tăng
dân số còn khá cao trung bình là 2% với quy mô dân số 3.519.840 ngươi với quy mô và tỷ lệ tăng dân số còn cao như vậy thì trong vòng khoảng 6 năm sau số lượng học sinh bước vào lớp 1 sẽ là 700.000 em đó có thể nói là một con số tương đói lớn, bên cạnh đó theo tính toán của cục thống kê Thanh hóa thì số lượng học sinh tiểu học từ năm 1989 đến 1999 tăng 196.624 em tức là tăng 51,62% như vậy trong vòng 10 năm đòi hỏi hệ thông giáo dục của tỉnh phải tăng gấp 1,5 lần và trên thực tế thì Thanh hóa chưa làm được đIều đó. Như vậy, mức sinh cao ảnh hưởng sấu đên giáo dục ở các mặt sau :
* Tác động trực tiếp: Số lượng dân số, tốc độ tăng dân số hàng năm, cơ cấu dân số phản ánh nhu cầu đi học của dân cư. Nếu mức sinh ổn định tức là tốc độ tăng dân số ổn định, số lượng trẻ em đến trường tương đới ổn định thì việc mở rộng quy mô giáo dục sẽ tạo đIều kiện thuạn lợi để hầu hết trẻ em được đến trường, lúc đó tỷ lệ ngươi đI học sẽ cao. Nhưng với tốc độ tăng dân số khá nhanh, đòi hỏi phảI mở rông quy mô giáo dục với một tốc độ tăng tương ứng mới có thể giữ được tỷ lệ ngươi đi học như trước song về mặt tuyệt đối số người có tăng hơn là một mâu thuẫn xã hội đó là một khó khăn rất lớn của ngành giáo dục.
Mức sinh tăng nhanh không những góp phần làm tằn số trẻ em đến tuổi đi học, làm tăng số học sinh phổ thông và cũng làm tăng nhu cầu học nghề và học đại học.
Ngoài ra cơ cấu dân số cũng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển giáo dục. Một tỉnh có cơ cấu dân số trẻ như tỉnh Thanh hóa thì nhu cầu về học phổ thông là rất lớn đòi hỏi phải có sự mở rộng về trường lớp và đào tạo thêm nhiều giáo viện.
* Tác động gián tiếp
Quy mô và tốc độ tăng dân số ảnh hưởng đến chất lượng của cuộc sống trứoc hết là mức thu nhập, từ đó muốn nâng cao trình độ học vân thì phảI đầu tư cho ngành giáo dục từ quy mô đến chất lượng đào tạo.
Trong trường hợp mức sinh khá cao, tốc độ tăng dân số khá cao mà tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm hơn tốc độ tăng dân số thì mức thu nhập bình quân đầu người thấp nên khả năng đầu tư cho giáo dục thấp, do đó làm cho quy mô và chất lượng giáo dục bị hạn chế, kìm hãm sự phát triển về trình độ học vân của người dân.
Sự cần thiết phải nâng cao trình độ học vân của toàn xã hội nói chung và của tủnh Thanh hóa nói riêng
Học vấn là tài sản quý giá nhất của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Để đánh giá trình độ phát triển của mỗi nước thì trình độ học vân là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá và ngay từ ngàn đời xưa để chinh phục được tự nhiên thì không ít các nhà hiền triết đã tìm tòi học hỏi nâng cao khả năng hiểu biết của mình nhằm biến sức mạnh của tự nhiên thành sức mạnh của con người và cứ như vậy chãi qua một quá trình lịch sử lâu dài đã hình thành nên xã hội văn minh của chúng ta ngày nay. Truyền thống đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi tiến trình lịch sử của nhân loại. Nhận thức được tầm quan trọng của học vấn ngay từ khi thành lập nước, Đảng và nhà nước ta đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của đất nước. Chính vì vậy mà việc nâng cao trình độ học vân của toần xã hội nói chung và phụ nữ nói riêng không nằm ngoài chủ chương đó. Đứng dưới tác động của trình độ học vân với các vấn đề KHHGĐ ta thấy trình độ học vân vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là trình độ học vân của người phụ nữ vì chức năng sinh đẻ chỉ có ở người phụ nữ vì thế nâng cao học vấn của phụ nữ cũng có nghĩa là nâng cao sự hiểu biết của họ về các biện pháp KHHGĐ bên cạnh đó phụ nữ có học vấn cao còn giúp họ khảng định vị thế của mình so với nam giới, nhằm đẩy lùi những quan niệm phong kiếnlạc hậu về người phụ nữ, từ đó giúp người phụ nữ có thể tham gia các hoạt động xã hội cũng như các hoạt động phát triển kinh tế bình đẳng hơn so với nam giới.
Bên canh đó chúng ta cũng nhận thấy rằng việc nâng cao trình độ học vân không chỉ là trách nhiệm của cộng đồng, của xã hội mà mỗi cái nhân cần có trách nhiệm tu dưỡng học tập để năng cao trình độ học vân của mình có như vậy thì mới thúc đẩy được sự phát triển của xã hội.
Thanh hóa là tỉnh có trình độ học vân nói chung còn thấp so với cả nước đặc biệt là đối với vùng nông thôn và miền núi và nhất là học vấn của phụ nữ còn thấp và còn có sự khác biệt so với nam giới vì thế việc nâng cao trình độ học vân cho người dân là việc làm rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.