Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc còn nhỏ lấy tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890, trong một gia đình trí thức phong kiến yêu nước tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Người lớn lên khi dân tộc Việt Nam mất độc lập, tự do, nhân dân lầm than, nô lệ, đang rên xiết ...
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc còn nhỏ lấy tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890, trong một gia đình trí thức phong kiến yêu nước tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Người lớn lên khi dân tộc Việt Nam mất độc lập, tự do, nhân dân lầm than, nô lệ, đang rên xiết dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai.
a) Hoàn cảnh lịch sử
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc còn nhỏ lấy tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 19/5/1890, trong một gia đình trí thức phong kiến yêu nước tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Người lớn lên khi dân tộc Việt Nam mất độc lập, tự do, nhân dân lầm than, nô lệ, đang rên xiết dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Suốt mấy chục năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước theo xu hướng phong kiến và dân chủ tư sản liên tiếp nổ ra nhưng đã không thành công. Yêu cầu có đường lối mới, giai cấp mới lãnh đạo phong trào cứu nước giải phóng dân tộc Việt Nam trở nên cấp thiết.
Khi Nguyễn Tất Thành - Một tên gọi khác của Hồ Chí Minh - ra đi tìm đường cứu nước cũng là khi chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tranh giành ảnh hưởng, xâm lược và bóc lột các dân tộc thuộc địa.
Sự lớn mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin và thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người. Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập làm cho phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc phát triển mạnh mẽ.
Tại Paris, thủ đô nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc được đọc ‘Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo, số ra ngày 16 và 17/7/1920 của Đảng Xã hội Pháp. Những hiểu biết ban đầu đã giúp Hồ Chí Minh xác định được con đường cứu nước theo lập trường vô sản; đã lựa chọn tán thành Quốc tế thứ ba và tin theo V.I.Lênin. Từ một người yêu nước, Hồ Chí Minh đã trở thành một chiến sĩ cộng sản, Người theo chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính. Bước chuyển lịch sử đó của Người đồng thời phù hợp với xu thế của thời đại, mở ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và có sức lôi cuốn lớp lớp người Việt Nam yêu nước tin tưởng đi theo.
Tóm lại, hoàn cảnh lịch sử ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận động, phát triển của tư tưởng yêu nước Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX đến những năm 20 của thế kỷ XX; là sự gặp gỡ giữa trí tuệ mẫn cảm, thiên tài của Hồ Chí Minh với trí tuệ thời đại, chủ nghĩa Mác - Lênin, đã hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
b) Những tiền đề tư tưởng - lý luận
Các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
Tư tưởng của Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí độc lập, tự cường; đoàn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng, lạc quan yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo... Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản.
Truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương đã ảnh hưởng sâu sắc tới đến quá trình hình thành nhân cách và bản lĩnh của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Chủ nghĩa yêu nước chân chính và các giá trị văn hoá dân tộc Việt Nam là tiền đề tư tưởng quan trọng của Nguyễn Tất thành khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Tinh hoa văn hóa nhân loại:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán quan điểm của các trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ kim, đông, tây; tinh thần cách mạng, tinh thần độc lập, tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc cách mạng... để vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến các giá trị tư tưởng nhân loại trở thành tư tưởng của mình. Đặc biệt, Người đã kế thừa, phát triển các giá trị tích cực của Nho giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa Tam dân và văn hóa tư sản...
Chủ nghĩa Mác - Lênin:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã có nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong ba nguồn gốc trên, chủ nghĩa yêu nước là cơ sở ban đầu và là động lực thúc đẩy Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có nội dung mới, tầm cao mới, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho việc phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại có định hướng khoa học và cách mạng đúng đắn. Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu có và sâu sắc thêm chủ nghĩa yêu nước và tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Chủ tịch Hồ Chí Minh.
c) Các phẩm chất, năng lực của Hồ Chí Minh
Những điều kiện trên cũng đã đến với nhiều người cùng thời với Hồ Chí Minh. Nhưng chỉ có ở Chủ tịch Hồ Chí Minh những điều kiện đó mới phát triển trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi vì có sự tham gia của các phẩm chất cá nhân của Người.
Trước hết, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với sự nhận xét, phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu hiện thực cuộc sống.
Thứ hai, là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của nhân loại, học tập kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế.
Thứ ba, là ý chí của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, thương yêu những người cùng khồ, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập cùa Tổ quốc, vì tự do, hạnh phúc của đồng bào.
Thứ tư, là một gương đạo đức cao đẹp, trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, khiêm nhường.
Cùng với những năng lực bẩm sinh, những phẩm chất cá nhân cao quý trên tạo nên những giá trị của nhân cách văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận, chọn lọc, chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và thời đại thành tư tưởng đặc sắc, sáng tạo của mình.