Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ) - Bài soạn 5
Hướng dẫn soạn bài: Câu 1. Tìm bố cục của truyện: a. Đại ý: Câu chuyện một người phụ nữ đức hạnh “đẹp nết, đẹp người” lẽ ra phải được hạnh phúc nhưng trái lại, bị oan khuất phũ phàng dành phải mượn làn nước bạc chứng minh cho sự trong trắng của mình. b. ...
Hướng dẫn soạn bài:
Câu 1. Tìm bố cục của truyện:
a. Đại ý:
Câu chuyện một người phụ nữ đức hạnh “đẹp nết, đẹp người” lẽ ra phải được hạnh phúc nhưng trái lại, bị oan khuất phũ phàng dành phải mượn làn nước bạc chứng minh cho sự trong trắng của mình.
b. Bố cục: Truyện có thể chia làm 3 đoạn:
- Đoạn 1: Từ đầu đến lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình” - Hoàn cảnh xa cách chồng vì chiến tranh của Vũ Nương và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
- Đoạn 2: “Qua năm sau... nhưng việc trót dã qua” - Nồi oan khuất về cái chết bi thảm của người con gái Nam Xương.
- Đoạn 3: Phần còn lại: Ước mơ nghìn đời của nhân dân cái thiện luôn thắng cái ác.
Câu 2. Nhân vật Vũ Nương được miêu tả trong hoàn cảnh nào? Ở từng hoàn cảnh, Vũ Nương bộc lộ những đức tính gì?
Thông qua nhân vật Vũ Nương, độc giả thấy được những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Nhân vật chính của truyện là Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương là một người phụ nữ tính tình “thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp” lấy phải chàng họ Trương con nhà hào phóng nhưng vô học lại có tính đa nghi.
Trong cuộc sống thường nhật, trước tính hay ghen của Trương Sinh, Vũ Nương giữ gìn khuôn phép, không từng lúc nào để vợ chồng phải đến thất hòa. Tình cảm thủy chung gắn bó với chồng còn được thể hiện trong lời dặn dò đầy tình nghĩa của nàng lúc tiễn chồng đi lính: “chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi”... Những lời nói ân tình đằm thắm của Vũ Nương đà làm mọi người đều ứa hai hàng lệ.
Khi xa chồng, Vũ Nương thủy chung buồn nhớ dài theo năm tháng, nàng là mẹ hiền dâu thảo, một mình vừa dưỡng nuôi con nhỏ, vừa tận tâm chăm sóc mẹ chồng những khi đau yếu đã hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Nàng hết sức thương xót khi mẹ chồng mất việc ma chay tế lẽ, lo liệu như đối với cha mẹ mình.
Khi bị chồng ngờ oan, Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã vui lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nhưng chồng vẫn không tin. Vũ Nương đau đớn thất vọng khi không hiểu vì sao lại bị đối xử bất công bị “mắng nhiếc... và đánh đuổi đi”, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng. Trước tình cảnh “bình rơi trâm gẫy”, “sen rủ liễu tàn”, cả nỗi dau chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn thể làm được nữa, Vũ Nương thất vọng đến tận cùng. Không còn cách nào khác, nàng đành phải mượn dòng nước con sông quê hương để giãi tỏ tấm lồng trong sáng của mình. Vũ Nương tắm gội chay sạch ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lèn trời than thở rồi gieo mình xuống sông mà chết. Lời than thở của nàng như thể một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất và tấm lòng tiết sạch gìá trong của mình.
Có thể nói những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương được tác giả khắc họa một cách cụ thể sinh động thông qua từng việc làm, lời cụ thể của nàng. Một người xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, hiếu thảo, thủy chung như thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Câu 3. Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất? Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến?
- Nguyên nhân trực tiếp là do Trương Sinh quá đa nghi, hay ghen, gia trưởng, độc đoán. Trương Sinh đã không cho Vũ Nương cơ hội trình bày, thanh mình.
- Nguyên nhân gián tiếp là do xã hội phong kiến – Một xã hội gây ra bao bất công ấy, thân phận người phụ nữ thật bấp bênh, mong manh, bi thảm. Họ không được bênh vực chở che mà lại còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, …
Câu 4. Hãy nêu nhận xét về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện?
a) Về cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện của tác giả:
Nguyễn Dữ đã lấy tích truyện từ cổ tích nhưng ông đã tái tạo để truyền kì của ông trở thành một sáng tác văn học đích thực.
Trước hết nhà văn dã chủ trọng đến khắc họa tâm lí nhân vật. Vũ Nương trong Truyền kì mạn lục của ông đẹp hơn, nhiều bi kịch hơn mà cũng sâu sắc hơn. Còn Vũ Nương trong truyện dân gian là người vợ nhạt tình, kém sâu sắc.
Nguyễn Dữ cũng đã sắp xếp lại và thêm bớt một số tình tiết: thêm chi tiết Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ, làm cho cuộc hôn nhân của hai người trở nên có tính chất mua bán. Trong tâm lí Vũ Nương vi thế có chút mặc cảm, tự thấy mình yếu thế: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu". Tác giả thêm chi tiết lời trăn trối của bà mẹ chồng để khẳng định nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với nhà chồng, rồi những lời phân trần giãi bày của nàng khi bị ngờ oan và nhất là hành động hết sức bình tĩnh và quyết liệt của nàng khi tìm đến cái chết, mượn nước quê rửa sạch nỗi oan khuất của mình. Thêm nữa là lời ngây thơ cùa đứa trẻ ngày một kích động tính ghen tuông của Trương Sinh, từng chi tiết làm cho nút thắt ngày một chặt hơn để cuối cùng sự thật phơi bày tỏ rõ sau khi Vũ Nương không còn nữa. Nhờ đó truyện của tác giả giàu kịch tính hơn, đặc biệt gợi cảm hơn.
b) Giá trị nghệ thuật của những đoạn đối thoại:
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có những đoạn đôi thoại và lời tự bạch của nhân vật được xếp đặt thật xác thực làm cho câu chuyện tăng thêm phần sinh động, góp phần đáng kể vào việc khắc họa tâm lí và tính cách của nhân vật. Qua lời thoại ta hiểu được đôi nét tâm lí và tính cách của nhân vật ấy. Chẳng hạn lời thoại của bà mẹ Trương Sinh cho thấy bà là một con người nhân hậu, nếm trải nhiều. Lời của Vũ Nương thi lúc nào cũng mềm mỏng, dịu dàng, thuần hậu, nết na, có lí, có tình.
Câu 5. Tìm những yếu tố kì ảo trong truyện. Đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, tác giả nhằm thể hiện điều gì?
Đó chính là đoạn kết có hậu mà tác giả đã thêm vào truyện dân gian. Những tình tiết kì ảo đó là: Phan Lang nằm mộng thấy mình thả cứu con rùa mai xanh; sau này Phan Lang chạy trốn giặc Minh lạc vào động rùa của Linh Phi, gặp lại con rùa do ông cứu sống khi xưa đãi tiệc. Trong buổi tiệc ây, Phan Lang được gặp Vũ Nương vốn người cùng làng (đã chết), rồi được sứ giả của Linh Phi đưa về dương thế. Và hình ảnh cuối cùng: "Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lộng rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện... Rồi trong chốc lát bỗng loáng thoáng mờ nhạt dần rồi biến đi mất”. Đây cũng chính là những chuyện huyền ảo kì lạ, không có thực nhưng tác giả đưa vào tạo ra một thế giới lung linh hấp dẫn.
Các yếu tố kì ảo vừa nói được nhà văn gắn với những sự kiện có thực và sử dụng những chi tiết thực để cấu tạo nên như các địa danh bến đò Hoàng Giang ải Chi Lăng. Như thời điểm lịch sử: Cuổi đời Khai Đại nhà Hồ, nhân vật lịch sử (Trần Thiêm Bình), sự kiện lịch sử (quân Minh xâm lược, nhiều người chạy trốn ra bề, bị đắm thuyền). Như những chi tiết thực về trang phục lộng lẫy của các cô gái đẹp và trong đó nổi bật chỉ có một người "mặt chỉ hơi điểm qua chút phấn son”. Như nhà cửa vườn tược của Vũ Nương hoang rậm mồ mả cỏ gai rợp mắt. Nghệ thuật kết gắn những chi tiết có thực này với những chi tiết huyền ảo nhằm tăng độ tin cậy tạo cảm giác thực cho các tình tiết truyện.
Với những yếu tố truyền ki này, tác giả nhằm tạo nên một kết thúc có hâu. Ông muốn hoàn chỉnh thêm những nét đẹp của Vũ Nương. Tuy đã sang thế giới khác nhưng nàng vẫn không quên chồng con, phần mộ ông bà tổ tiên và nhất là vẫn khao khát được phục hồi danh dự. Kết thúc có hậu cho tác phẩm như thế cũng là thể hiện ước mơ nghìn đời của nhân dân ta về sự công bằng ở đời. Nghĩa là người ngay, nguời tôt dù gặp hoạn nạn, oan khuất nhưng cuối cùng sẽ được đền đáp, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng. Tác giả sắp đặt cho Vũ Nương, con người chịu oan khuất từ cõi âm hiện về dương thế uy nghi rực rỡ nhưng cũng chỉ thấp thoáng lúc rõ lúc mờ, khi ẩn khi hiện nói lời từ tạ chồng thật ngậm ngùi: Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trờ về nhân gian dược nữa và rồi chỉ “trong chốc lát bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần rồi biến mất”. Đó chỉ là niềm cảm thương của tác giả đối với bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phong kiến