Chơi bài chòi - Di sản Văn hóa phi vật thể cần được bảo tồn ở Quảng Trị
Bài Chòi là một trong những di sản văn hóa phi vật thể đặc trưng và tiêu biểu ở các làng quê thuộc dải đất miền Trung từ Quảng Bình trở vào nhưng thịnh hành là vùng Nam Trung Bộ, nhất là ở Quảng Nam, Bình Định và Phú Yên. Cứ vào mỗi dịp Tết Nguyên đán, người dân trong các làng lại rộn ràng chuẩn bị dựng chòi kê ván chuẩn bị cho Hội bài chòi mùa xuân.
Để tổ chức hội chơi bài chòi, nhân dân thường dựng chòi ở những vị trí rộng rãi và đông người qua lại. Chòi, trại thường được bố trí theo hình chữ U, mặt quay vào trong sân. Người ta thường dựng 11 chòi, theo dạng song song mỗi bên 5 chòi đối diện và tương ứng nhau từng cặp một. Cuối hai dãy chòi là một chòi trung tâm hoặc chòi cái. Đối diện chòi trung tâm là Trại chỉ huy (dành cho Ban điều hành và đội cổ nhạc). Trại chỉ huy có trống chầu dành cho người điều khiển cuộc chơi, một chiếc bàn lớn đặt khay tiền và những lá cờ hiệu, cạnh đó là chỗ ngồi của dàn nhạc gồm 1 sanh, 1 nhị, 1 kèn, 1 trống, có khi thêm 1 phèng la.
Chòi được làm bằng tre chắc chắn, có thang cho người lên xuống, chòi cao 3m, có sạp cho người ngồi chơi, cả ba mặt được che chắn cẩn thận chỉ để trống mặt trước, mái lợp tranh. Trên mỗi chòi có treo một cái mõ tre làm hiệu trong lúc đánh bài. Trên mỗi chòi cắm một lá cờ hội. Khoảng đất trống giữa sân dựng cây nêu bằng tre cao, trảy hết mắt cành để nguyên ngọn, trên đó treo một lá cờ hội lớn.
Khoảng đất trống ở giữa là sân khấu trệt bốn mặt. Đây là không gian dành cho một hoặc hai nhân vật đặc biệt (tùy thể thức chơi mỗi làng), làm nhiệm vụ quản trò, gọi là người chạy bài. Người này phải rành các con bài, điệu hát, điệu hò quen thuộc, nhớ nhiều thơ và ca dao, biết pha trò, giỏi ứng tác. Người chạy bài là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của bài chòi.
Đánh bài thì phải có con bài, đó là những thẻ tre được chuốt theo dạng hình mái chèo đầu bè ra để dán lá bài, đầu kia nhỏ hơn, vót tròn vê nhọn. Các chân bài nhuộm màu đỏ, giống hệt nhau để khi cho đầu dán bài vào ống thì không phân biệt được từng con bài. Bộ thẻ bài gồm 30 cặp tức là 60 con bài trong bộ bài tới, chia làm ba pho (văn, vạn, sách), mỗi pho có chín cặp; Pho văn gồm các con bài: Gối, hai, ba, voi, rún, sáu tiền, liễu, tám tiền, xe. Pho vạn có các con bài: Học trò, tám cẳng, ba đấu, ngũ trợt, xơ, quăn, nhọn, bồng, thầy. Pho sách có các con bài: Nọc đượng, nghèo, gà, gióng, dày, sáu hột, sưa, tám giây, đỏ mỏ và 3 cặp bài yêu là: Ông ầm, thái tử, bạch tuyết. Tùy từng địa phương, các con bài được gọi khác nhau. Con bài làm bằng giấy, hình chữ nhật (8,5cm x 2,5cm), in một mặt đồ án biểu trưng cho con bài, lá bài pho văn, vạn, sách in màu đen, riêng ba cặp bài yêu có đóng thêm dấu đỏ.
Chơi bài chòi tùy mỗi địa phương có hình thức chơi khác nhau, có làng dựng 11 chòi (Đơn Duệ, Ngô Xá Tây) mỗi chòi được phát thẻ bài gồm 5 con, ban tổ chức chừa lại một con làm con đi chợ và để lại 2 cặp bài thừa về trại chỉ huy; riêng ở làng Đơn Duệ và Hồ Xá, bộ bài được chia làm hai, phân biệt bởi hai màu xanh - đỏ chia cho hai dãy chòi, chòi cái có 6 con bài của của cả hai màu, con đi chợ tùy thuộc vào người chạy bài phát bài nhanh hay chậm, nếu quân đội nào phát bài chậm thì con cuối cùng của đội đó làm con bài đi chợ; có làng dựng 10 chòi (Tùng Luật) thì mỗi chòi được phát thẻ bài gồm 6 con, ban tổ chức bắt thăm để chọn chòi đi chợ; có làng dựng 9 chòi (Hồ Xá), mỗi chòi được phát 5 thẻ bài, chòi cái 6 con lấy một con đi chợ. Mặc dù hình thức chơi ở một số làng có khác nhau, nhưng chơi bài chòi chủ yếu có hai cách: Mỗi chòi được phát năm hay sáu thẻ bài, chòi cái nhiều hơn một thẻ và lấy thẻ đó làm con bài đi chợ, mỗi lần chòi nào có thẻ bài trùng với con bài đó thì đi mỗi lần hai con còn con cuối cùng để “chực tới”; Hoặc bộ bài được chia làm hai, một nữa 30 con, ban tổ chức phát cho mỗi chòi 3 thẻ bài còn 30 con gọi là bài nọc số bài này được đựng trong một ống tre treo cao ở giữa sân, mỗi lần người hô rút bất kỳ một con chòi nào có con bài trùng với con vừa hô là thắng, thắng đủ ba con là tới. Mỗi lần như thế thông báo bằng những tiếng mõ.
Sau một hồi trống khai mạc của ban tổ chức vang lên, người chạy bài mời những người chơi bước lên chòi bằng những câu hò:
Mừng ngày Nguyên Đán
Dân làng bè bạn
Khán giả gần xa
Vận may có sẵn đây mà
Ghé vô nhận lấy chậm là tuột tay
Nhanh chân chọn một chòi bài
Vận may ta đến hái lộc tài đầu xuân
Sau khi người chơi đã lên đủ ở các chòi, người chạy bài đặt các ống thẻ lên chiếc khay đến từng chòi. Trên chòi, người chơi rút ngẫu nhiên số quân bài như quy định của luật chơi và chờ đợi con đi chợ. Người chạy bài sẽ rút một thẻ bài của bất kỳ mà chưa nêu tên con đó ngay mà sẽ dẫn cuộc chơi bằng những câu hát có liên quan đến con bài dán trên thẻ. Chẳng hạn anh ta hô:
Đầu năm ta thử hên xui
Leo lên chòi bắc ta thử vận may
Cũng là góp tiếng pháo tay
Cho hội bài chòi làng được rộn vang
Mười một chòi đã sẵn sàn
Để nghe con sáu tiền mở hàng đầu năm.
Như thế con bài anh ta vừa rút khai cuộc là con sáu tiền, những người chơi bài đã biết trên chòi của mình có những con gì ngay từ ban đầu. Nghe hô “sáu tiền đi chợ”, chòi nào có con sáu tiền thì cốc cốc cốc cho tiếng mõ vang lên báo hiệu. Người chạy bài chạy đến chiếc chòi có sáu tiền. Người trên chòi sẽ trao cho anh ta con sáu tiền thứ hai mình có và đi kèm theo một con bài khác nữa. Người chạy bài chưa vội công khai ngay tên con bài mới. Anh ta bước ngược, bước xuôi, pha trò những lời lẽ vần điệu có liên quan đến nó. Chẳng hạn đó là con gối anh ta sẽ xướng:
Cổ tay em trắng lại tròn
Để cho ai gối mà mòn một bên
Chòi nào có bài trùng với con bài ấy, đáp lại bằng ba tiếng mõ. Anh ta lại bước đến chòi có tiếng mõ và được người trên chòi trao cho con bài đó kèm theo một con bài khác. Anh lại cầm con bài mới đọc, nói... trong sự hồi hộp chờ đợi của mọi người.
Khi chòi nào đó có quân bài tới, người chòi đó reo hò sung sướng, tiếng mõ liên hồi cốc cốc vang lên. Từ rạp chỉ huy, Ban tổ chức cho nổi lên hồi trống chầu báo hiệu có người thắng cuộc và xong một ván bài. Lúc này người chạy bài chạy đi các chòi thu hồi thẻ bài, sau đó bưng đến chòi trúng thưởng chiếc khay đựng tiền thưởng (các suất tiền - xuất đặt thẻ bài) đi đến và trân trọng dâng lên cho chiếc chòi có người thắng cuộc. Thông thường phần thưởng chỉ phát từ 8 đến 10 suất, lưu lại một đến hai suất cho ban tổ chức dùng để chi phí và sau đó tiếp tục kẻ bước xuống người bước lên chòi chơi ván khác.
Ngoài bài chơi ở chòi, một vài nơi (Hà Trung) tổ chức chơi bài ghế. Cách chơi tương tự như người chơi ngồi trên chòi, ghế được xếp theo hình chữ U. Ban tổ chức ngồi ở chiều ngang chữ U, hai cánh chiều dọc là của hai phe. Mỗi phe 5 người. Tiến trình chơi diễn ra tương tự như lối chơi bài chòi.
Hội bài chòi ngày Tết thu hút từ trẻ em đến các ông cụ bà cụ trong làng, các cô các cậu thanh niên, các bà lão miệng nhai trầu móm mém, tất cả ai nấy đều xúng xính trong bộ quần áo mới, đẹp nhất tụ hội xung quanh sân hội Bài chòi. Người ta chơi bài chòi không chỉ tìm thú vui giải trí trong ba ngày Tết mà còn muốn chơi một hội đầu năm, xem vận hên, may đầu năm ra sao, nên đều nô nức đến tham gia chơi bài chòi một cách say mê.
Bài chòi ở Quảng Trị vừa mang trong nó hơi thở nóng hổi của cuộc sống hiện đại, vừa chứa đựng vẻ dịu dàng, duyên dáng của một nét văn hóa truyền thống đầy ý nghĩa. Chính vì thế, Hội Bài chòi đã trở thành nếp sinh hoạt văn hóa, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của người dân trong làng, tạo nên không khí vui tươi đầm ấm trong những ngày xuân. Với những giá trị văn hóa đặc sắc đó, hy vọng bài chòi ở Quảng Trị sẽ được các cấp các ngành quan tâm hơn nữa để bảo tồn và định hướng phát triển.