Chính sách và cơ chế quản lý giá của nhà nước
Mọi nhà nước chấp nhận cơ chế thị trường và muốn phát triển nền kinh tế nước mình vận động theo cơ chế thị trường đều phải thực hiện sự điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều tiết giá cả của nhà nước là một trong những khâu chính trong ...
Mọi nhà nước chấp nhận cơ chế thị trường và muốn phát triển nền kinh tế nước mình vận động theo cơ chế thị trường đều phải thực hiện sự điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Điều tiết giá cả của nhà nước là một trong những khâu chính trong hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô tổng thể của nhà nước vì giá cả là phạm trù tổng hợp có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của hầu hết các tham số kinh tế vĩ mô. Ngày nay, sự điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước theo cơ chế thị trường là một tất yếu khách quan nhằm hạn chế bớt những tác động tiêu cực, sự điều tiết giá cả do đó cũng không thể thiếu được. Điều tiết giá cả là một trong những đòn bẩy, công cụ có tính quyết định đảm bảo sự thành công của các hoạt động điều tiết khác và của hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô nói chung của nhà nước.
Điều tiết giá cả của nhà nước là hoạt động không thể thiếu được nhằm khắc phục khuyết tật của thị trường trong lĩnh vực thị trường và góp phần khai thác tốt các nguồn lực quốc gia bằng giá cả. Đây là một trong những lý do khách quan đòi hỏi nhà nước thực hiện sự điều tiết giá cả. Trong điều kiện ngày nay, chế độ định giá tự do mặc dù còn có vai trò tích cực, thậm chí là quyết định nhưng nó cũng dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực. Tình trạng dùng các thủ đoạn trong định giá, độc quyền là những hiện tượng đã gây không ít thiệt hại cho các nền kinh tế. Thực tiễn ở các nước kinh tế thị trường cho thấy, nếu để cho thị trường tự do quá nhiều quyền định đoạt giá thì có nguy cơ dẫn đến suy thoái và khủng hoảng. Những khuyết tật của thị trường tự do, các cuộc suy thoái đã làm lung lay nền tảng của nhà nước, buộc nhà nước phải tìm cách đối phó bằng con đường kinh tế. Đó là giá cả. Nhà nước không chỉ tìm cách khắc phục những khuyết tật của chế độ định giá tự do mà còn cần tác dụng vào giá cả nhằm khai thác hết những tiềm năng của nền kinh tế.
Hơn nữa, ngày nay lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức cao làm cho sự phát triển kinh tế của các nước liên quan chặt chẽ đến nhau. Hội nhập kinh tế đang trở thành một xu hướng lớn và tất yếu khách quan. Chính vì vậy, chính sách kinh tế của mỗi nước phụ thuộc lớn vào các hoạt động đối ngoại, chính sách kinh tế của các nước khác. Trong điều kiện đó, nếu nhà nước không thực hiện điều tiết giá cả thì sẽ ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của nhà nước. Mặt khác, nhà nước sẽ bị thua thiệt trong quan hệ kinh tế đối ngoại và thị trường hoạt động tự phát của nước này không thể cạnh tranh với thị trường có sự điều tiết của nhà nước khác. Nếu nhà nước không có chính sách trợ giá đối với các công ty còn yếu trong cạnh tranh với công ty nước ngoài hoặc không có hệ thống hàng rào thuế quan (tác động nên sự hình thành giá) thì các doanh nghiệp trong nước không thể tồn tại được. Do đó chỉ xét trên quan hệ kinh tế đối ngoại và chính sách đối ngoại nói chung đã thấy sự cần thiết phải điều tiết giá của nhà nước. Điều tiết giá sẽ có tác dụng củng cố và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại đồng thời thúc đẩy khai thác thế mạnh của nước mình trong hệ thống phân công lao động quốc tế và tiềm năng khoa học tiên tiến của thế giới.
Trong mọi quốc gia, giá cả là một trong những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và thu nhập của các tầng lớp khác nhau. Khi giá cả có ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống hay thu nhập của họ thì tất yếu họ phải đứng lên đấu tranh đòi nhà nước phải điều chỉnh lại giá cả. Do đó, sự điều tiết giá cả có vai trò lớn trong việc ổn định chính trị - xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường công bằng xã hội.
Sự điều tiết giá cả của nhà nước là sự cần thiết khách quan và có rất nhiều tác dụng, vai trò khác nhau. Đáng lưu ý nhất là vai trò trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trước hết là mục tiêu sản lượng trong việc thực hiện công bằng xã hội.
Trước hết là vai trò điều tiết giá cả của nhà nước đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trong đó đặc biệt là mục tiêu sản lượng. Để tác động vào nền kinh tế có hiệu quả, chính phủ phải đề ra hệ thống các mục tiêu, mà trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược và chính sách cụ thể. Hiện nay, chính phủ các nước theo cơ chế kinh tế thị trường thường hướng tới các mục tiêu lớn là: sản lượng, công ăn việc làm và giá cả…Các mục tiêu này không tách rời nhau mà gắn bó chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Trong số này, sản lượng là mục tiêu tổng hợp, là thước đo thành tựu kinh tế vì mức đạt được các mục tiêu khác phản ánh trong mục tiêu sản lượng. Chẳng hạn, công ăn việc làm nhiều, ổn định là nhân tố tăng nhanh sản lượng. Ngược lại, lạm phát quá cao phản ánh tình trạng khủng hoảng của nền kinh tế.
Sự điều tiết giá cả của nhà nước không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, mà nó còn có tác dụng to lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ như vậy vì giá cả, ngoài các chức năng khác, còn có chức năng phân phối.
Bên cạnh đó, giá cả còn là quan hệ trao đổi của cải vật chất giữa những người sản xuất, giữa các tổ chức kinh tế xã hội, và nói rộng ra, giữa các nhóm dân cư, thậm chí giữa các tầng lớp, giai cấp…Do đó, sự thay đổi giá cả tương đối sẽ làm cho thu nhập của hai bên thay đổi. Nhà nước có thể căn cứ vào tình trạng bất công bằng xã hội để điều chỉnh giá cả, từ đó lập lại công bằng xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội không đối lập với các mục tiêu kinh tế mà ngược lại, gắn bó chặt chẽ với nó. Thực hiện công bằng xã hội, trước hết đó là sự phát huy nhân tố con người ở tầm vĩ mô. Điều này sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai, về lâu dài. Tuy vậy, chính phát triển mục tiêu kinh tế lại là cơ sở, tiền đề thực hiện các mục tiêu xã hội…Đó cũng là biện chứng giữa vai trò thực hiện mục tiêu kinh tế và mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội của sự điều tiết giá cả của nhà nước.
Nhà nước có thể sử dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau để điều tiết giá cả. Việc nhà nước sử dụng biện pháp nào là tuỳ thuộc vào từng thời điểm, từng điều kiện sử dụng những công cụ nào và dưới hình thức nào là tốt nhất và có ảnh hưởng tích cực nhất. Sau đây là những biện pháp mà nhà nước có thể sử dụng tùy vào sự đánh giá, phân tích tình hình cụ thể.
Định giá
Định giá là việc nhà nước dùng công cụ hành chính để tác động vào mức giá và hướng sự vận động của giá về phía giá trị. Vì giá trị kinh tế cũng là một đại lượng luôn biến đổi nên định giá bao gồm cả định giá cố định và định giá biến đổi. Định giá có thể thực hiện dưới các dạng sau:
- Giá cứng: Nhà nước quy định mức giá chuẩn cho một số mặt hàng nào đó. Trên thị trường, mọi doanh nghiệp và cá nhân đều phải mua, bán theo mức này. Biện pháp này được áp dụng chủ yếu đối với các mặt hàng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và có thể gây chấn động lớn cho hệ thống giá khi nó biến đổi như xăng dầu, điện, nước…
- Giá trần: Giá trần là hình thức mà nhà nước quy định mức giá tối đa của một hàng hoá nào đó. Khi đặt giá trần, chính phủ muốn ngăn chặn không cho mức giá vượt quá cao nhằm bảo vệ lợi ích cho một nhóm người có thu nhập thấp. Song, thông thường mức giá đó lại thấp hơn mức giá thị trường và gây ra hiện tượng thiếu hụt như hình 3. Giả sử P(x) là giá mặt hàng X và Q(x) là sản lượng mặt hàng này. PE là mức giá cân bằng giữa cung và cầu. Nhà nước đặt mức giá P, khi đó lượng cầu QD sẽ vượt quá cung QS và gây ra hiện tượng thiếu hụt trên thị trường.
ảnh hưởng của giá trần
- Giá sàn: Giá sàn là việc nhà nước quy định mức giá tối thiểu về một mặt hàng nào đó. Trên thị trường, các nhà kinh doanh có thể mua bán với mức giá cao hơn mức giá sàn một cách tuỳ ý, nhưng nhất định không được thấp hơn mức giá sàn. Tương tự đối với mức giá P(x) và sản lượng Q(x) của mặt hàng X, khi mức giá sàn được nhà nước quy định là P, lượng cung sẽ là QS song cầu chỉ là QD do đó sẽ thừa ra một lượng là QS - QD. Điều này dẫn đến hiện tượng dư thừa. Như vậy sự can thiệp của nhà nước vào thị trường dưới hình thức giá trần hay giá sàn đều dẫn tới sự dư thừa hay thiếu hụt ở các mức giá quy định . Do vậy, các hình thức định giá khác đã được đưa ra.
- Giá khung: Nếu nhà nước qui định cả mức giá trần và mức giá sàn cho một loại hàng hoá nào đó thì đây được gọi là quy định theo mức giá khung.
- Thẩm định chi phí (giá tính): Đối với những mặt hàng mà giá cả rất khó tính và bị chi phối bởi nhiều nhân tố khác nhau thì sử dụng giá tính. ở đây các nhà kinh doanh tự tính toán giá bán của mình dựa vào chi phí, sau đó các cơ quan quản lý giá duyệt và thẩm định lại chi phí.
Trợ giá
Trợ giá là hình thức nhà nước sử dụng các công cụ tài chính và tín dụng nhằm biến đổi mức giá theo tính toán của mình qua kênh ưu đãi. Cũng như biện pháp định giá, mục đích trợ giá là giữ cho mức giá cả hàng hoá gần sát với mức giá trị kinh tế, do đó hạn chế tổn thất về sản lượng ở mức nhỏ nào đó. Nhờ có trợ giá, giá cả có thể được giữ ở mức thấp hơn hoặc cao hơn mức giá cả của thị trường. Khi muốn bảo hộ người tiêu dùng, nhà nước sẽ giữ mức giá cả thấp hơn mức giá thị trường, song đồng thời phải thực hiện ưu đãi cho người sản xuất. Ngược lại, nếu nhà nước muốn giữ cho mức giá cả cao hơn mức giá thị trường nhằm bảo hộ cho người sản xuất thì nhà nước phải có chính sách khuyến khích tiêu dùng để giá không bị giảm xuống dưới mức tính.
Thuế
Tăng hoặc giảm thuế là biện pháp quan trọng nhất của nhà nước đối với sự điếu tiết giá cả. Thuế suất thường vận động thuận chiều với mức giá nên khi muốn tăng giá (trong một giới hạn khách quan nhất định) mặt hàng nào đó thì phải tăng thuế suất và ngược lại. Thuế vừa có tác động trực tiếp và vừa có tác động gián tiếp.
- Tác động trực tiếp của thuế là: Thuế sẽ được hạch toán vào giá thành sản phẩm và ảnh hưởng lên mức giá.
- Tác động gián tiếp của thuế: Thuế cao sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp giảm nên doanh nghiệp sẽ giảm khối lượng sản xuất để chuyển sang hình thức kinh doanh khác. Ngược lại, nếu thuế suất giảm thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ cao hơn và doanh nghiệp sẽ gia tăng sản lượng.
Xét mô hình phân tích cân bằng cục bộ thuế quan cho một nước nhỏ nhập khẩu. Gọi P(x) là giá mặt hàng X và Q(x) là sản lượng mặt hàng X. P0 là giá mặt hàng X khi không có thuế nhập khẩu. Khi đó sản xuất trong nước là OA, mức cầu trong nước là OB dẫn đến dư cầu một lượng AB. Sau khi đánh thuế nhập khẩu, mức giá của mặt hàng X tăng từ P0 lên P1. Mức nhập khẩu giảm từ CF đến HI. Mức giá tăng lên làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng nhưng nhà nước lại thu được một khoản MHIH cho ngân sách. Như vậy thuế nhập khẩu làm mức giá tăng, lượng nhập khẩu giảm, làm giảm mức độ hội nhập của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới.
Các biện pháp điều hoà thị trường
Điều hoà thị trường cũng là một trong những biện pháp chính nhà nước sử dụng để điều tiết giá cả. Thực chất của biện pháp này là nhà nước sử dụng quỹ bình ổn giá để hạn chế sự chênh lệch của giá cả so với giá trị kinh tế do mâu thuẫn giữa cung và cầu gây ra. Cơ chế hoạt động của quỹ này là: Hàng hoá sẽ được mua vào tại những nơi và những lúc hàng hoá “ế thừa”, giá cả thấp hơn giá trị kinh tế làm cho giá được nâng lên về phía giá trị kinh tế và hàng hoá sẽ được bán ra vào những nơi, những lúc hàng hoá “khan hiếm” nhờ đó giá cả được giảm xuống gần về phía giá trị kinh tế.
Các biện pháp ổn định sức mua của đồng tiền
Trong trường hợp giá cả tăng lên gây ra hiện tượng mất giá liên tục và lạm phát, rõ ràng là không thể dùng mệnh lệnh để đình chỉ lạm phát hay dùng bình ổn giá để giải quyết sự tăng giá lên. Trong trường hợp này nhà nước phải sử dụng các biện pháp khác như sau:
- Can thiệp vào lãi suất: Khi giá cả đã tăng lên một cách phổ biến thì điều chỉnh lãi suất được xem như là một biện pháp có tính chất quyết định nhằm ngăn chặn cơn sốt và hạ tỷ lệ tăng giá. ở đây, tác dụng của điều chỉnh mức lãi suất không chỉ là hạn chế khoảng sai lệch giữa giá cả và giá trị kinh tế. Vì sự tăng lên một cách phổ biến gây nên hậu quả là giá cả của các hàng hoá khác nhau tăng lên theo những tỷ lệ khác nhau, do vậy tác dụng chủ yếu của điều chỉnh lãi suất là ổn định giá cả, dần dần khắc phục sự bất ổn định của giá cả.
- Điều chỉnh tỷ giá hối đoái và giá cả của các mặt hàng trọng yếu: Tình trạng lạm phát giá cả, giá cả tăng lên một cách phổ biến có một trong những nguyên nhân quan trọng từ phía giá cả của các đồng ngoại tệ mạnh (tức tỷ giá hối đoái) và giá cả của các mặt hàng thiết yếu khác. Do vậy khi tình trạng lạm phát cao xảy ra, điều chỉnh tỷ giá và giá cả mặt hàng trọng yếu có tác dụng kéo tốc độ tăng giá xuống. Tuy nhiện, biện pháp này phải sử dụng đồng thời với các biện pháp khác.
Các biện pháp điều tiết giá cả khác
Ngoài những biện pháp đã nêu, điều tiết giá cả của nhà nước còn có nhiều biện pháp khác. Trong khi sử dụng các biện pháp trên, nhà nước phải đi đôi sử dụng cả những biện pháp này thì mới đem lại kết quả cao được. Những biện pháp đó là: khuyến cáo, hướng dẫn tính và lập giá, đăng ký và niêm yết giá, hiệp thương giá…Đây là những biện pháp tổn phí rất nhỏ nhưng đôi khi lại có tác dụng quyết định. Những biện pháp này ngày càng được các nhà nước chú ý đến nhiều hơn vì nó không tổn hại đến tự do kinh doanh mà không cần đến quỹ tài chính lớn, không những khuyến khích được tính tích cực của các tổ chức kinh tế mà còn cả tính tích cực của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện trao đổi theo giá trị kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế của Việt Nam, việc đổi mới và hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý giá hiện nay cần phải dựa trên các quan điểm sau:
Thực hiện tự do hoá thị trường và giá cả
Đây là một quan điểm mang tính tiền đề. Bởi vì, một mặt, không tự do hoá thị trường thì không có sản xuất hàng hoá thực sự, không phát huy đầy đủ mặt tích cực của kinh tế hàng hoá, không đảm bảo sự hoạt động khách quan của các quy luật vốn có của nó. Mặt khác, không có tự do hoá thị trường cũng không làm bộc lộ đầy đủ những mâu thuẫn, những hạn chế nội tại của kinh tế thị trường, mà chính sách và cơ chế quản lý giá của nhà nước lại phải hướng vào giải quyết những vấn đề đó.
Quan điểm này cũng đòi hỏi việc thể chế hoá mọi điều kiện đảm bảo cho sự hoạt động khách quan của kinh tế thị trường mà cốt lõi của nó là sự tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể sản xuất hàng hoá theo đúng luật định. Tuy nhiên, khi thừa nhận tự do hoá thị trường và giá cả, đồng thời cũng phải thừa nhận sự quản lý của nhà nước đối với thị trường và giá cả. Vì chỉ có nhà nước mới là yếu tố trung gian đảm bảo cho sự tự do hoá thị trường, tự do hoá giá cả. Như vậy, việc thực hiện hoá quan điểm này đòi hỏi một là, nhà nước phải can thiệp vào những quan hệ mất tự do, mất bình đẳng của thị trường. Hai là, cần chống mọi sự can thiệp làm triệt tiêu tính tự do. Mọi hoạt động của nhà nước, của các chủ thể kinh doanh, của quan hệ thị trường phải được thể chế hoá thành luật. Từ đó, chính sách và cơ chế quản lý giá của nhà nước phải được đặt trong khuôn khổ của sự nhận thức đúng đắn và tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường chi phối sự hình thành và vận động của giá cả thị trường và phải thông qua hệ thống luật, trong đó, có luật quản lý thị trường và giá cả, để điều hành giá thị trường. Bên cạnh đó, tự do hoá thị trường còn bao hàm cả việc sớm xoá bỏ sự bao cấp qua giá, qua vốn, xây dựng và triển khai các điều kiện để hình thành các thị trường vốn, lao động, tài nguyên, tạo mọi điều kiện để phát huy cạnh tranh lành mạnh, chống mọi xu thế độc quyền và liên minh độc quyền.
phải luôn hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Bản chất của kinh tế thị trường bao hàm hai mặt, mặt tích cực và mặt tiêu cực. Chính sách và cơ chế quản lý giá cần phải hướng vào mặt tích cực như thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, hiệu quả kinh tế cao, đồng thời phải khắc phục mặt tiêu cực như phân hoá giàu nghèo, phân hoá thành thị và nông thôn, đề cao lợi ích cục bộ.
Quán triệt quan điểm này, trong thời gian trước mắt, chính sách và cơ chế quản lý giá phải hướng vào những nội dung cơ bản là: bảo đảm ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, bảo đảm sự ổn định giá cả, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, từng bước thúc đẩy sự hội nhập của kinh tế và giá cả trong nước với kinh tế và giá cả trên thị trường thế giới, thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất và tiêu dùng trong những trường hợp cần thiết.
Chính sách và cơ chế quản lý phải được đặt trong một tổng thể các giải pháp đồng bộ
Giá cả luôn là một hiện tượng kinh tế tổng hợp. Nó có mối liên hệ nhân quả với nhiều hiện tượng và giải pháp kinh tế khác. Do đó, giá cả có thể xem như tín hiệu thị trường của một quá trình kinh tế hay của một tổng thể các giải pháp kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế và công cuộc cải cách giá của nước ta đủ để chúng minh rằng sẽ không có sự phát triển kinh tế lành mạnh nếu như không có sự ổn định về giá cả. Nhưng cũng sẽ không có được sự ổn định về giá cả nếu như không có một chính sách tiền tệ đúng đắn, mà mục tiêu của nó là đẩy mạnh phát triển sản xuất, chống lạm phát và củng cố sức mua của đồng tiền. Vì vậy trong quản lý kinh tế và quản lý giá cả, phải thông qua tín hiệu giá cả thị trường để giải quyết đồng bộ các giải pháp khác nhằm đạt mục tiêu của quản lý vĩ mô nói chung và quản lý giá cả nói riêng.
Quán triệt quan điểm này cũng có nghĩa là quản lý giá cả phải hướng vào việc quản lý các nhân tố hình thành nên giá cả. Giá cả chịu sự chi phối, tác động của rất nhiều các nhân tố kinh tế - xã hội. Mức độ tác động của từng nhân tố tới giá cả rất khác nhau. Không nên quan niệm rằng, quản lý giá cả chỉ là sự can thiệp trực tiếp vào mức giá, mà nó còn bao hàm cả sự quản lý gián tiếp thông qua các nhân tố tác động đến sự hình thành và vận động của giá thị trường chẳng hạn như lượng cung, cầu, mức biểu thuế, lượng xuất nhập khẩu…Quan điểm đó cũng có thể đặt ra ngay cả với loại giá cần bảo hộ. Tất nhiên, trong điều hành cụ thể phải tuỳ từng thời kỳ, từng loại hàng, từng hình thái thị trường và quy luật hình thành giá cả để lựa chọn tác động vào nhân tố nào nhằm thực hiện được mục tiêu quản lý giá.
Mức độ và hình thức can thiệp của nhà nước tới giá cả thị trường phải tuỳ thuộc vào vị trí của từng loại hàng hoá
Hình thức quản lý giá trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chủ yếu là hình thức gián tiếp. Có nghĩa là đối với tuyệt đại bộ phận danh mục hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân, việc hình thành giá cả của chúng là do sự thoả thuận giữa bên mua và bên bán. Nhà nước thực hiện sự quản lý gián tiếp thông qua việc tác động vào quan hệ cung cầu trong những trường hợp cần thiết, nhằm đảm bảo cho sự hình thành và vận động của giá cả đi theo đúng hành lang của những mục tiêu kinh tế - xã hội, mục tiêu quản lý giá đã đặt ra.
Đối với những hàng hoá giữ vị trí quan trọng trong sản xuất hoặc tiêu dùng, giá cả dễ biến động hoặc dễ bị các doanh nghiệp thao túng. Trước mắt, nhà nước có thể quy định giá sàn để định hướng cho việc quản lý giá và điều khiển thị trường. Song về lâu dài, phải khuyến khích cạnh tranh, cho phép thành lập doanh nghiệp tư nhân. Riêng đối với lĩnh vực kinh doanh độc quyền, nhà nước có thể tìm cách phá thế độc quyền hoặc có thể tiến hành định mức giá cụ thể một cách trực tiếp, kèm theo một chính sách thuế luỹ tiến nghiêm ngặt. Ngoài ra, trong việc quản lý giá cả và thị trường nói chung, cần kết hợp hài hòa giữa giải pháp giá và thuế một cách linh hoạt.
Cần hoàn thiện và nâng cao quyền lực của bộ máy tổ chức quản lý giá
Để đảm bảo cho chính sách và cơ chế quản lý giá mới thực sự đi vào cuộc sống và phát huy tính tích cực đối với nền kinh tế quốc dân, cần phải hoàn thiện và nâng cao quyền lực của bộ máy tổ chức quản lý giá. Đồng thời, chức năng và nhiệm vụ của bộ máy đó cũng cần thiết phải thay đổi theo hướng giảm việc định giá trực tiếp, tăng cường thanh tra, kiểm tra giá, tư vấn, hướng dẫn và thông tin giá cả và thị trường.