Chiến dịch Phượng Hoàng
(tiếng Anh: Phoenix Program), Kế hoạch Phụng Hoàng, hay Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng (1968-1975) là chiến dịch tình báo, ám sát bí mật trong Chiến tranh Việt Nam được tiến hành bởi Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) với sự phối ...
(tiếng Anh: Phoenix Program), Kế hoạch Phụng Hoàng, hay Chương trình Phụng Hoàng/Phượng Hoàng (1968-1975) là chiến dịch tình báo, ám sát bí mật trong Chiến tranh Việt Nam được tiến hành bởi Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) với sự phối hợp của Tình báo Việt Nam Cộng hòa. Chương trình này được hoạch định với mục đích phát hiện và "vô hiệu hóa" – bắt bớ, chiêu hàng, giết chóc, hoặc kiềm chế – các cán bộ Việt Cộng nằm vùng, những người tuyển dụng và đào tạo cơ sở cách mạng tại các xã ấp Miền Nam Việt Nam, cũng đồng thời là những người hỗ trợ các nỗ lực đấu tranh vũ trang. Đầu tiên, chương trình được chỉ đạo bởi Evan J. Parker, sau đó bởi Ted Shackley cùng các cấp phó Thomas Clines, Donald Gregg và Richard Secord.
Tuy ban đầu chương trình được CIA khởi xướng, nhưng sau đó nó được chuyển giao cho Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khi trở thành một phần của chương trình "Việt Nam hóa chiến tranh", chiến dịch này được chuyển thành một chương trình của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với sự hỗ trợ của cố vấn quân sự Mỹ. Chiến dịch Phụng Hoàng được chính thức phê chuẩn ngày 1 tháng 7 năm 1968 bởi sắc lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu, mặc dù trước đó nó đã tồn tại không chính thức.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã công bố chính thức về sự tồn tại của nó vào tháng 10 năm 1969, nhằm mục đích giành được sự chấp thuận và hợp tác rộng hơn của người dân Miền Nam, sau khi những hoạt động dưới quyền Gary Leroy và Karl Sherrick gây ra cái chết của 23 người chỉ trong tháng 3 năm 1969.
Chương trình gây ra cái chết của rất nhiều dân thường và đánh mất một phần sự ủng hộ của dân chúng với phe tham chiến chống cộng sản.
Tờ bướm tuyên truyền của chính quyền VNCH về chiến dịch
Tại miền Nam Việt Nam những năm trong thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, mạng lưới chính quyền cách mạng bí mật phát triển, có ảnh hưởng rộng rãi đối với quần chúng nhân dân. Mạng lưới này là cơ sở Việt Cộng (VCI – Viet Cong infrastructure, theo cách gọi của người Mỹ), hay mạng lưới cơ sở cách mạng chỉ đạo đấu tranh chính trị tại các làng xóm miền Nam Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở cách mạng cung cấp lương thực và vật dụng cho các lực lượng vũ trang địa phương hoặc các lực lượng từ các căn cứ gần biên giới; cung cấp thông tin tình báo, dẫn đường cho quân đội miền Bắc; động viên nhân lực cho du kích và bộ đội chủ lực vùng; huy động đóng góp của quần chúng, duy trì một dạng chính quyền thô sơ ở địa phương.
Hệ thống kể trên đã hoạt động ở miền Nam Việt Nam từ nhiều năm và thành thạo trong các phương pháp hoạt động bí mật. Chương trình Phụng Hoàng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa phát triển nhằm đương đầu với hệ thống cơ sở cách mạng kể trên. Khác với các nỗ lực quân sự, Phụng Hoàng là hoạt động mang tính chiến dịch của Cảnh sát quốc gia và được chỉ đạo bởi các ủy ban Phượng Hoàng bao gồm đại diện phía dân sự và các tổ chức quân sự bao gồm cứu tế xã hội, các cơ quan tình báo và tuyên truyền. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa thực thi những điều luật riêng biệt áp dụng cho tội xúi giục chống đối và yêu cầu các công dân ủng hộ bằng cách cung cấp thông tin.
Ở các vùng ít nhiều trung thành với chính quyền Sài Gòn, sự bảo vệ chống lại các lực lượng Miền Bắc hoặc thậm chí chỉ là du kích Việt cộng thường kém hiệu quả, những quan chức địa phương bị ám sát, những người trung thành với chính quyền Sài Gòn, những người có liên quan với Mỹ bị xử bắn.
Lấy ví dụ năm 1969, hơn 6.000 người bị giết, hơn 1.200 người bị ám sát, và 15.000 người bị thương. Trong số những người thiệt mạng có 90 quan chức xã và xã trưởng, 240 quan chức ấp và ấp trưởng, 229 người tản cư và 4.350 thường dân.
Bởi hệ thống Việt Cộng nằm vùng là một đối thủ có kinh nghiệm và tổ chức chặt chẽ, cần phải có các chuyên gia chiến tranh chính trị (political warfare). Trong hai năm 1967 và 1968, nỗ lực phối hợp tình báo (dựa chủ yếu vào các hoạt động của CIA) chống lại các cơ sở cách mạng được chủ trì bởi Tư lệnh quân đội viễn chinh Mỹ - tướng William Westmoreland. Đây là chương trình hợp tác quân sự và dân sự mang tên "Phối hợp và Khai thác tình báo" (Intelligence Coordination and Exploitation – ICEX) với nhiệm vụ là giúp đỡ và hỗ trợ chính quyền Sài gòn đương đầu với các mạng lưới cơ sở cách mạng này. Lúc đầu, chương trình này (ICEX) nhận được rất ít chú ý và ủng hộ của chính quyền Nam Việt Nam. Chỉ khoảng vài chục đối tượng Việt Cộng nằm vùng bị bắt giữ mỗi tháng bởi các hành động đột kích và bắt bớ chủ yếu do các đơn vị CIA.
Đến khi hàng ngàn cơ sở cách mạng tự lộ mình để tham gia Cuộc tổng tấn công Mậu thân 1968, chương trình Phụng Hoàng bắt đầu thu được kết quả cao. Sự hỗ trợ và quan tâm của chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng lên cao, chương trình này được chính thức phê chuẩn và mở rộng. Từ đó, các thành phần cảnh sát, quân đội và các tổ chức chính quyền cộng tác để đóng góp thông tin và hành động chống lại hạ tầng cơ sở của Việt Cộng.
Chương trình Phụng Hoàng là nỗ lực sử dụng các nguồn tin tình báo, tiêu diệt các cá nhân trong mạng lưới Việt Cộng nằm vùng. Một biện pháp của quân đội Mỹ nhằm vào mạng lưới Việt Cộng cơ sở là bố ráp và truy lùng. Theo biện pháp này, quân đội bao vây một làng nghi vấn có Việt Cộng hoạt động, sau đó tra hỏi rồi dời dân chúng đi nơi khác. Một số chiến dịch của chương trình Phụng Hoàng cũng dùng các biện pháp quân sự ví dụ như phục kích Việt Cộng ở khoảng trống giữa các thôn ấp.
Trên giấy tờ, những cán bộ Việt Cộng bị bắt giữ, đối xử như tội phạm hình sự, bị xử án và tù đày (hoặc hành hình), hoặc bị thuyết phục phản bội lại lý tưởng chống Mỹ. Tuy nhiên, trên thực tế, rất nhiều người bị giết trong các cuộc đọ súng, đột kích hoặc bị hành hình tức khắc.
Tới năm 1969, khi chương trình Phụng Hoàng mất đi tính bí mật và thu hút sự chú ý của báo chí, CIA dần rút khỏi chương trình này. Các tổ chức bí mật của Mỹ được thế chân bởi các cố vấn tình báo quân sự Mỹ (quá trình này phát triển cùng tiến trình "Việt Nam hóa chiến tranh") và chú trọng vào huấn luyện, tổ chức nhân viên chính quyền Việt Nam Cộng hòa để duy trì áp lực với hệ thống cơ sở Việt Cộng. Các lực lượng chủ yếu được giao phó là Bảo an và Cảnh sát đặc biệt. Tháng 1 năm 1970, có khoảng 450 cố vấn quân sự Mỹ hỗ trợ chính quyền Việt Nam Cộng hòa trong khuôn khổ chương trình Phụng Hoàng. Cho đến thời điểm quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1973, kết quả của chương trình Phụng Hoàng không đều khắp thậm chí khá khiêm tốn. Điều này là do hoàn cảnh nhiều hơn là do không còn thích hợp: hình thái chiến tranh đã thay đổi và mạng lưới cơ sở Việt Cộng không còn phổ biến nữa. Phần lớn Việt Cộng nằm vùng được đưa ra vùng giải phóng. Sau năm 1973, chính quyền Sài Gòn dành ưu tiên và nguồn lực cho các hoạt động khác.
Trong thời gian diễn ra chiến dịch Phượng Hoàng, CIA bị tố cáo là đã sử dụng các hình thức tra tấn một cách có hệ thống. Theo lời K. Barton Osborn, một sĩ quan tình báo quân đội tham gia chiến dịch thì đã có nhiều hình thức tra tấn dã man như đóng đinh vào tai người bị hỏi cung cho tới chết, trích điện vào chỗ kín của đàn ông và đàn bà... Trong suốt 18 tháng viên sĩ quan này tham gia chiến dịch, anh ta không thấy bất cứ người nào còn có thể sống sót sau quá trình hỏi cung. Để lấy lại thể diện, CIA cũng đã tiến hành một cuộc điều tra toàn diện về những khai nhận của Osborn và bác bỏ một số chi tiết nhỏ trong lời nói của sĩ quan này nhưng về toàn cục sự tàn bạo của cả chương trình là không thể chối bỏ. Không chỉ đích thân thực hiện, các viên chức CIA còn huấn luyện cho các đơn vị địa phương của Việt Nam Cộng hòa những hình thức khủng bố (bao gồm ám sát, tra tấn, tống tiền và các "kỹ thuật" khác) để đối phó với Việt Cộng, việc này giúp các viên chức Mỹ đẩy những phần việc họ không thể làm một cách hợp pháp cho các lực lượng nước ngoài.
Có ý kiến thậm chí còn cho rằng mục tiêu chính của các quan chức Sài Gòn trong chiến dịch Phượng Hoàng là tiền bởi CIA treo thưởng 11.000 USD cho mỗi người Việt Cộng bị bắt sống, với những Việt Cộng bị giết chết số tiền này bị giảm một nửa. Tham gia chiến dịch ám sát này còn có những người từng là tội phạm hoặc những cựu Việt Cộng được CIA chiêu hàng và trả tiền, theo lời một người trong số này thì chỉ cần thu thập vài xác Việt Cộng để lấy tiền là họ có thể sống thoải mái. Một số sĩ quan địa phương thậm chí còn bắt những người vô tội để hoàn thành "chỉ tiêu" (quota) của CIA hoặc nhận hối lộ của những người bị bắt để thả họ.
Chương trình Phụng Hoàng gây hậu quả xấu đối với tình trạng dân cư và sự bất mãn trong dân chúng. Chương trình này nguy hiểm ở chỗ nó bị sử dụng để đàn áp những người bất đồng quan điểm với chính quyền bất kể họ là Việt Cộng hay không. Nó cũng góp phần đáng kể cho sự nhũng loạn của hệ thống hành chính. Nhiều quan chức địa phương đe dọa người dân địa phương hoặc tha bổng Việt Cộng vì tiền. Thậm chí một số chuyên viên quân sự cho rằng chương trình Phụng Hoàng mang lại tác động tích cực cho Việt Cộng hơn là gây tác hại. Bằng việc tù đày rất nhiều người mà phần nhiều là những người chỉ hoạt động ở tầng thấp - đôi khi dân chúng buộc phải hợp tác với Việt Cộng nếu họ sống trong vùng do Việt Cộng kiểm soát – chính quyền Việt Nam Cộng hòa trở nên ngày càng bị một bộ phận lớn dân chúng xa lánh.
Có ý kiến còn cho rằng, chương trình này gây mất lòng dân chúng hơn bất kỳ hành động nào khác của quân đội viễn chinh Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Chương trình Phụng Hoàng thường được gọi bằng cái tên "chiến dịch ám sát", và bị chỉ trích là một ví dụ tiêu biểu của những hành động tàn bạo xâm phạm nhân quyền mà CIA và các tổ chức của nó đã tiến hành. Theo thống kê của Mỹ, trong năm 1969, 19.534 người được coi là Việt Cộng đã bị "vô hiệu hóa" (từ sử dụng trong chương trình Phụng Hoàng): 6.187 người bị giết, 8.515 bị bắt, 4.832 chiêu hồi. Tới năm 1971, William Colby đưa ra con số người bị giết trong chương trình này là 20.857. Con số của chính quyền Sài Gòn còn cao hơn rất nhiều: 40.994. Cá biệt, một nhóm dưới sự chỉ đạo của Karl Sherrick và Gary Leroy giết tới 23 người trong một tháng. Các đơn vị của hai người này chịu trách nhiệm về 200 cái chết trong các đợt hành động của họ. Tuy nhiên, dưới 10% số nạn nhân của chương trình Phượng Hoàng đã thực sự là mục tiêu của chương trình này. Phần còn lại bị gán là cơ sở của Việt Cộng sau khi bị giết hại. Các nỗ lực của các tỉnh trưởng nhằm đạt chỉ tiêu giao phó cũng dẫn đến sự phóng đại con số thống kê bằng cách tính cả các vụ bắt giữ người không theo Việt Cộng, bắt giữ nhiều lần một đối tượng, và đưa cả số người chết từ các hoạt động quân sự vào kết quả chương trình Phụng Hoàng. Người ta đã công nhận rộng rãi rằng số liệu của chương trình Phụng Hoàng trong những năm đầu thực hiện đã bị xuyên tạc, bóp méo và rất không chính xác.
Ngoài ra, cơ sở để định đoạt một đối tượng có phải là Việt Cộng hay không cũng rất thiếu cụ thể. Trong nhiều trường hợp, người này vu khống người kia là Việt Cộng để mượn tay quân đội Mỹ giết kẻ mình thù oán.
Dù còn nhiều tranh cãi, chương trình này cũng đạt được một số hiệu quả. Ông Nguyễn Cơ Thạch, người sau này là Phó thủ tướng nước Việt Nam thống nhất, phát biểu sau chiến tranh rằng chương trình Phụng Hoàng đã làm suy yếu hệ thống cơ sở cách mạng, góp phần tiêu diệt và phá hoại đến 95% cơ sở cách mạng ở một số khu vực tại miền Nam Việt Nam.
Một ý kiến cho rằng kết quả của chương trình Phụng Hoàng đã giúp an ninh nội bộ của Miền Nam ít nghiêm trọng – Miền Nam sau này được giải phóng bằng sự tấn công của bộ đội chủ lực chứ không phải do nội dậy giành chính quyền. Điều này cần được xem xét kỹ lại vì thực tế Việt Cộng thay đổi hình thái đấu tranh từ nổi dậy sang hoạt động quân sự thuần túy là quyết định rút ra từ kết quả của Cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân cùng với cán cân lực lượng đang thay đổi rõ rệt.