25/05/2018, 08:16

Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Khái niệm . Có thể tạm định nghĩa việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như là việc chuyển một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc khối tài sản chung vào khối tài sản riêng của vợ hoặc của chồng. Đây không phải là phân chia hiểu theo nghĩa ...

Khái niệm. Có thể tạm định nghĩa việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như là việc chuyển một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc khối tài sản chung vào khối tài sản riêng của vợ hoặc của chồng. Đây không phải là phân chia hiểu theo nghĩa thông thường, tức là việc chấm dứt tình trạng sở hữu chung theo phần bằng cách phân hẳn cho người này hay người nọ một hoặc nhiều tài sản vốn thuộc sở hữu chung, như thế nào để tổng giá trị các tài sản chia cho một người ngang với giá trị phần quyền của người đó trong khối tài sản chung được đem chia. Khi tiến hành chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ và chồng có thể thoả thuận rằng người này hoặc người kia nhận nhiều tài sản, dù trên thực tế, công sức đóng góp của người nhận nhiều tài sản vào việc tạo lập, phát triển khối tài sản chung không tương xứng với giá trị của số tài sản nhận được.

Các đặc điểm của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Cơ chế thanh toán đặc biệt

Chia tài sản chung như trong một vụ ly hôn. Nếu phân chia tài sản chung trong điều kiện hôn nhân đã đổ vỡ trên thực tế nhưng chưa chấm dứt về mặt pháp lý, thì vợ chồng có thể tính toán với nhau một cách sòng phẳng trong việc xác định phần quyền của mỗi người trong khối tài sản chung, như khi ly hôn; đặc biệt, họ sẽ có thể dựa vào các quy định liên quan đến công sức đóng góp của người này hay người kia vào sự phát triển của khối tài sản chung để thanh toán khối tài sản đó trước khi tiến hành phân chia. Việc chia tài sản chung của vợ, chồng, khi đó, được thực hiện theo đúng các quy định trong luật chung về chia tài sản thuộc sở hữu chung theo phần, cũng như theo các quy định về chia tài sản sau khi ly hôn, đặc biệt là các quy định về phân chia nhà ở, quyền sử dụng đất nông nghiệp,... như sẽ thấy.

Chia tài sản chung như một biện pháp hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của vợ chồng. Trái lại, nếu chỉ để tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng thực hiện một nghĩa vụ riêng hoặc cả một dự án kinh doanh riêng, thì vợ chồng có thể thoả thuận về việc dành cho người cần có tài sản riêng một phần lớn tài sản nhằm đáp ứng đến mức có thể được nhu cầu huy động tài sản để trả nợ hoặc để kinh doanh của người này, mà không quan tâm đến tham số về công sức đóng góp của người này hay người kia vào việc tạo lập, phát triển khối tài sản chung. Trong trường hợp sau này, việc xác định phần quyền của vợ, chồng trong khối tài sản chung được phân chia thường chỉ được thực hiện... sau khi đã chia xong khối tài sản đó. Ví dụ, vợ và chồng thoả thuận rằng người này nhận một hoặc nhiều tài sản, người kia nhận một hoặc nhiều tài sản khác; và vợ, chồng nói rằng giá trị phần quyền của mỗi người trong khối tài sản chung được phân chia cũng chính là giá trị của phần tài sản chung được chia cho mỗi người. Thậm chí, ta có thể nói rằng khi đó, vợ và chồng đã thoả thuận tiến hành chia tài sản chung mà không thanh toán trước phần quyền của mỗi người.

Phân chia tài sản chung không phải làì thay đổi chế độ tài sản

Không có chuyện thoả thuận ngược lại với các quy tắc thuộc chế độ chung? là một biện pháp giúp cho vợ, chồng chuyển các tài sản chung cụ thể, đã được tạo ravà hiện hữu trong khối tài sản chung của vợ chồng, thành tài sản riêng. Vợ chồng tuyệt đối không thể thoả thuận về việc chia tài sản chung sẽ có trong tương lai. Việc chia tài sản chung sẽ có trong tương lai, trong chừng mực nào đó, có thể được đồng hoá với việc thay đổi cơ sở pháp lý của sự hình thành các khối tài sản của vợ chồng. Ví dụ, nếu vợ chồng thoả thuận rằng từ nay về sau tiền lương, thu nhập khác của mỗi người và, nói chung, các tài sản được vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản riêng của mỗi người, thì coi như vợ chồng đã từ chối áp dụng quy tắc của chế độ chung theo đó, tiền lương, thu nhập của vợ, chồng, tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung. Việc thay thế một cách có hệ thống các quy tắc về thành phần cấu tạo của các khối tài sản, bằng các thoả thuận đặc thù, có thể dẫn đến sự hình thành các chế độ tài sản đặc thù không được luật dự kiến và điều đó cũng có nghĩa rằng bằng con đường thoả thuận, vợ chồng có thể loại bỏ hoàn toàn các quy tắc thuộc chế độ chung về tài sản và đặt các quan hệ tài sản giữa họ ra ngoài vòng pháp luật... một cách hợp pháp.

Các trường hợp chia tài sản chung

Đầu tư kinh doanh riêng

Tạo điều kiện thuận lợi cho giao dịch. Khái niệm đầu tư kinh doanh riêng khá rộng. Đó có thể là việc thành lập một doanh nghiệp tư nhân, việc tham gia thành lập một công ty với tư cách là một thành viên sáng lập hoặc việc tham gia vào một kế hoạch hợp tác kinh doanh

Đầu tư vào thị trường tài chính, thông qua việc mua bảo hiểm hoặc cổ phiếu, trái phiếu có được coi như một trường hợp đầu tư kinh doanh ? Nói chung, có vẻ như người làm luật muốn nói về tất cả các hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận được thực hiện một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, chứ không phải chỉ những công việc sản xuất, kinh doanh đặc trưng của một thương nhân trong quan niệm truyền thống. Việc chia tài sản chung cũng có thể được yêu cầu ngay cả trong trường hợp người có nhu cầu đầu tư kinh doanh không có ý định đưa tài sản được chia vào khai thác trong khuôn khổ hoạt động đầu tư, mà chỉ muốn chứng tỏ với mọi người bề thế của các tiềm lực vật chất trong tay mình, nhằm củng cố lòng tin cậy của các đối tác có quan hệ làm ăn với mình. Vả lại, người đầu tư không nhất thiết phải trở thành thương nhân. Có trường hợp người ta chia tài sản chung để có tài sản riêng góp vào một công ty có tư cách pháp nhân. Bản thân công ty là thương nhân, còn người góp vốn tự bằng lòng với tư cách thành viên công ty.
. Dự án đầu tư kinh doanh riêng có thể đang được thực hiện, nhưng cũng có thể chỉ mới được chuẩn bị thực hiện, thậm chí đang trong giai đoạn thai nghén, hình thành. Thực ra, tài sản chung vẫn có thể được đầu tư kinh doanh riêng đồng thời vẫn giữ nguyên quy chế tài sản chung: ngườìi đầu tư kinh doanh riêng sẽ có độc quyền khai thác công dụng của tài sản, do áp dụng nguyên tắc theo đó, vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc quản lý tài sản chung, đặc biệt là nguyên tắc quản lý riêng đối với tài sản chung dùng cho hoạt động nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc chia tài sản chung để tài sản được đầu tư kinh doanh riêng hưởng quy chế tài sản riêng tỏ ra có ích trong trường hợp người đầu tư kinh doanh muốn định đoạt tài sản hoặc xác lập các giao dịch quan trọng có liên quan đến tài sản (như cầm cố, thế chấp) theo những thủ tục đơn giản và không mất thì giờ.

Thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng

Khái niệm Ta đã nói rằng khái niệm nghĩa vụ riêng của vợ (chồng) trong khung cảnh của luật thực định chưa được xây dựng một cách hoàn hảo. Tuy nhiên, các nghĩa vụ được xác lập trước khi kết hôn cũng như các nghĩa vụ gắn liền với các tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân được bảo đảm thực hiện bằng các tài sản riêng, như đã biết, và trong chừng mực đó có thể được coi như là các nghĩa vụ riêng. Mặt khác, việc chia tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ cho phép nghĩ rằng nghĩa vụ đó là nghĩa vụ mà khối tài sản riêng có trách nhiệm đóng góp toàn bộ vào việc thanh toán: nếu khối tài sản chung “ứng trước” để thực hiện nghĩa vụ, thì, đến một thời điểm thích hợp, khối tài sản riêng phải hoàn lại. Với suy nghĩ đó, thì cũng có thể coi là nghĩa vụ riêng (mà việc thực hiện có thể dẫn đến việc chia tài sản chung), nghĩa vụ phát sinh từ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cá nhân vợ hoặc chồng mà người còn lại không bị ràng buộc một cách liên đới. Nghĩa vụ trả nợ vay, nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho người khác cũng là nghĩa vụ riêng, nếu đã được xác lập mà không có sự đồng ý của vợ (chồng).

Một cách tổng quát, ở góc độ chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, cái gọi là nghĩa vụ riêng có thể được hiểu theo nghĩa rộng nhất, như là nghĩa vụ mà việc bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung là không thể được hoặc không chắc chắn trong khung cảnh của luật thực định.

Tầm quan trọng của nghĩa vụ. Các nghĩa vụ phải có một tầm quan trọng nhất định. Không chỉ vì cần trả một món nợ riêng rất nhỏ mà phải chia một khối tài sản chung có giá trị lớn

Trả một món nợ nhỏ cũng không phải là lý do chính đáng để chia một khối tài sản có giá trị lớn.
. Tính chất nhỏ hay lớn của món nợ có lẽ nên được xác định trên cơ sở mối quan hệ so sánh giữa giá trị của món nợ phải trả và giá trị của khối tài sản riêng hiện hữu của người mắc nợ: nếu khối tài sản riêng hiện hữu thừa sức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, thì không lý do gì phải tiến hành chia tài sản chung
Giá trị của khối tài sản riêng hiện hữu nói ở trên là giá trị được thiết lập trên cơ sở cân đối tài sản có và nợ riêng đến hạn.
. Tuy nhiên, cũng có trường hợp khối tài sản riêng đủ hoặc thừa sức bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, nhưng việc chia tài sản chung vẫn tỏ ra cần thiết, do các tài sản riêng có giá trị đồng thời cũng là những tài sản có hoa lợi là nguồn sống chủ yếu của gia đình.

Nghĩa vụ xác lập trong tương lai. Luật không nói rõ nghĩa vụ tài sản riêng là nghĩa vụ hiện hữu hay nghĩa vụ sẽ được xác lập trong tương lai. Bởi vậy, việc chia tài sản chung cũng có thể được tiến hành nhằm bảo đảm việc thực hiện một nghĩa vụ mà ở thời điểm tài sản chung được phân chia, chỉ nằm trong dự tính của vợ hoặc chồng. Vợ muốn vay một số tiền mà không có tài sản riêng để bảo đảm; chồng không đồng ý với vợ về dự án làm ăn và do đó không đồng ý cùng đứng vay; vợ muốn chia tài sản chung để có thể tự mình đứng vay với sự bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng khối tài sản riêng, mà không cần đến vai trò của chồng. Cũng có khi người chồng trong giả thiết chủ động yêu cầu chia tài sản chung để bảo đảm an toàn cho một phần khối tài sản của gia đình. Điều chắc chắn: người sẽ trở thành chủ nợ của người vợ trong giả thiết không có quyền thay mặt người sắp vay tiền để yêu cầu chia tài sản chung, bởi chừng nào hợp đồng vay chưa được xác lập, quyền đó không tồn tại.

Lý do chính đáng khác

Đâu là các tiêu chí chung để đánh giá sự chính đáng ? Một trong những lý do chính đáng khác là: vợ chồng không còn thực sự sống chung, dù không chấm dứt quan hệ hôn nhân về mặt pháp lý

Ta goị đó là tình trạng ly thân thực tế. Thế nhưng, điều chắc chắn: vợ hoặc chồng không thể yêu cầu chia tài sản chung với lý do việc phân chia đó cần thiết cho việc chuẩn bị ly thân giữa hai người.
. Một lý do khác, cũng có thể coi là chính đáng: vợ hoặc chồng đã từng có nhiều tài sản riêng, nhưng phần lớn tài sản riêng đã được chuyển thành các tài sản chung sau các vụ chuyển nhượng; nay, vợ hoặc chồng muốn khôi phục khối tài sản riêng của mình để có thể chủ động trong các giao dịch riêng. Cũng được coi là có lý do chính đáng trong trường hợp vợ (chồng) vắng mặt tại nơi cư trú hoặc bị tuyên bố mất tích và người còn lại cần có một khối tài sản riêng để được chủ động hơn trong các giao dịch của mình. Trong một giả thiết đặc thù, vợ hoặc chồng thường xuyên có hành vi phá tán tài sản chung, chồng hoặc vợ cũng có thể yêu cầu chia tài sản chung để bảo đảm sự an ninh của kinh tế gia đình. Trái lại, khó có thể coi là có lý do chính đáng, nếu vợ hoặc chồng muốn chia tài sản chung chỉ vì cảm thấy rằng các quy tắc về quản lý tài sản chung quá gò bó, gây cản trở cho việc thực hiện các quyền tự do cá nhân của mình. Cũng không thể coi là chính đáng, vợ, chồng muốn chia tài sản chung chỉ vì nhận thấy rằng khối tài sản chung đã thu hút quá nhiều tài sản riêng của mình sau một quá trình dài chung sống: pháp luật đã xây dựng lý thuyết về công sức đóng góp vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung để bảo vệ lợi ích của đương sự.

Nói chung, tính chất chính đáng hay không chính đáng của lý do chia tài sản chung chỉ được đánh giá khi có tranh chấp và sự việc được đưa ra trước Toà án. Trong khung cảnh của luật hiện hành, một khi vợ chồng thống nhất ý chí về sự cần thiết của việc chia tài sản chung và cả về cách chia, thì, trong quan hệ giữa vợ và chồng, vấn đề chính đáng hay không chính đáng của lý do chia tài sản không được đặt ra, bởi, như ta sẽ thấy, sự thoả thuận giữa vợ và chồng về việc chia tài sản chung không chịu sự giám sát của Toà án, trừ trường hợp có đơn yêu cầu của một người thứ ba về việc ngăn chặn hoặc chế tài những vụ chia tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện những nghĩa vụ tài sản của bản thân vợ hoặc chồng

Ngay cả trong trường hợp có kiện cáo của chủ nợ, thì sự giám sát của Toà án có đối tượng là khả năng thanh toán của người có nghĩa vụ chứ không phải là tính chính đáng hay không chính đáng của việc chia tài sản chung.
. Nói cách khác, vấn đề có hay không có lý do chính đáng chỉ được đặt ra một khi giữa vợ và chồng không có sự nhất trí, đồng thuận về việc hay không chia tài sản chung.

Mà nếu vậy, thì trong trường hợp vợ và chồng có được sự đồng thuận đối với việc phân chia tài sản chung., quy định về sự hiện hữu của một lý do chính đáng trở nên thừa. Không chắc đó là giải pháp phù hợp với ý chí của người làm luật. Nếu đúng là vợ chồng có thể thoả thuận về việc phân chia tài sản chung mà không cần lý do chính đáng, thì toàn bộ chế độ pháp định về tài sản sẽ chỉ mang tính chất của luật bổ khuyết, nghĩa là chỉ được áp dụng nếu không có thoả thuận ngược lại.

Vợ, chồng

Có hay không quyền yêu cầu phân chia của vợ (chồng) ? Luật nói rằng trong những hoàn cảnh được luật dự kiến, thì việc phân chia có thể được tiến hành theo sự thoả thuận của vợ chồng (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 29 khoản 1); rằng nếu không thoả thuận được, thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết (cùng điều luật). Thoả thuận nói trong điều luật là thoả thuận về việc gì ? Về cách chia hay về chính sự cần thiết của việc chia tài sản chung ? Nếu đó chỉ là thoả thuận về cách chia, thì ta thừa nhận rằng vợ (chồng) có quyền yêu cầu phân chia tài sản chung một khi xảy ra một trong các trường hợp được luật dự kiến, mà không nhất thiết có sự đồng ý của người còn lại, bởi vấn đề chỉ là chia như thế nào. Nếu đó còn là sự thoả thuận về việc nên hay không nên chia, thì trong trường hợp giữa vợ và chồng không có được sự thoả thuận cần thiết, thẩm phán, theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai, có thể xem xét và quyết định cho phép hay không cho phép chia, tuỳ trường hợp. Câu chữ và khung cảnh của điều luật khiến người đọc nghĩ rằng cách hiểu thứ hai đối với điều luật có lẽ phù hợp với ý chí của người làm luật.

Các chủ nợ

Chủ nợ riêng

a. Ảnh hưởng của vi c chia tài s n chung đố i v i quy n l i c a ch n riêng

Hai trường hợp. Nhắc lại rằng ta tạm gọi là chủ nợ riêng, những người có quyền yêu cầu trả nợ được bảo đảm thực hiện chỉ bằng khối tài sản riêng của vợ (chồng) hoặc không chắc được bảo đảm thực hiện bằng khối tài sản chung. Trên nguyên tắc, việc chia tài sản chung chỉ càng củng cố khối tài sản bảo đảm cho việc trả nợ, bởi vậy chủ nợ có thể yên tâm một khi vợ chồng quyết định chia tài sản chung. Tuy nhiên, có trường hợp chủ nợ muốn người mắc nợ có tài sản riêng để bảo đảm việc trả nợ, nhưng người mắc nợ lại không muốn chia tài sản chung của vợ chồng để tránh sự kê biên của chủ nợ. Cũng có trường hợp người mắc nợ chủ động tiến hành phân chia tài sản chung nhằm mục đích trốn tránh việc trả nợ, bằng cách thoả thuận với vợ (chồng) để cho người sau này nhận gần như toàn bộ tài sản chia.

b. Ch n riêng có quy n gì?

Trường hợp người mắc nợ không chịu chia tài sản chung. Theo BLDS 2005 Điều 224 khoản 2, trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi xây dựng điều luật, người soạn thảo luật không phân biệt sở hữu chung mang tính chất theo phần hay hợp nhất. Bởi vậy, có vẻ như chủ nợ riêng của vợ, chồng cũng có quyền yêu cầu phân chia khối tài sản chung của vợ chồng, nếu người mắc nợ không chủ động yêu cầu chia để có tài sản riêng mà trả nợ.

Quyền yêu cầu của chủ nợ trong trường hợp này mang tính chất của một quyền khởi kiện chéo

Xem Thừa kế, nxb Trẻ, 1999, tr. 568 và kế tiếp.
. Chủ nợ thực hiện quyền này dưới danh nghĩa của người mắc nợ. Bởi vậy, tài sản được chia không đi thẳng vào khối tài sản của chủ nợ mà trước hết sẽ rơi vào khối tài sản riêng của người mắc nợ; nếu chủ nợ muốn nhận tiền thanh toán, thì phải thực hiện tiếp các thủ tục kê biên và bán đấu giá đối với các tài sản đó. Chủ nợ mà không thực hiện các thủ tục bắt buộc thực hiện nghĩa vụ, để cho người khác tiến hành kê biên trước và bán trước các tài sản đã được chia cho người có nghĩa vụ, thì coi như bỏ công phục vụ người khác.

Trường hợp người mắc nợ chia tài sản chung để trốn tránh việc trả nợ. Theo giả thiết, người mắc nợ chủ động tiến hành chia tài sản chung, nhưng lại cố tìm cách chia theo hướng chuyển tài sản chung thành tài sản riêng của vợ (chồng) mình. Trong trường hợp này, chủ nợ có một quyền được thừa nhận tại Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 29 khoản 2, sẽ được phân tích dưới đây.

Chủ nợ chung

Chủ nợ nào có liên quan? Tạm gọi là chủ nợ chung, những người có quyền yêu cầu được bảo đảm thực hiện bằng tài sản chung của vợ và chồng. Việc chia tài sản chung có tác dụng làm giảm sút lực lượng của khối tài sản bảo đảm cho việc trả nợ đối với chủ nợ chung và do đó làm thu hẹp khả năng thanh toán của người mắc nợ; bởi vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 29 khoản 2 quy định rằng pháp luật không công nhận việc chia tài sản chung nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Nhưng thực ra, chủ nợ nào mới thực sự là người có quyền lợi bị ảnh hưởng bởi việc chia tài sản chung ? Về mặt lý thuyết, các chủ nợ có thể thực hiện quyền đòi nợ bằng tài sản chung của vợ chồng được xếp thành ba nhóm:

- Chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu kê biên tài sản chung mà không được động đến tài sản riêng;

- Chủ nợ có quyền yêu cầu kê biên cả tài sản chung và tài sản riêng của vợ cũng như tài sản riêng của chồng;

- Chủ nợ chỉ có quyền yêu cầu kê biên tài sản chung và tài sản riêng của người trực tiếp xác lập nghĩa vụ mà không được động đến tài sản riêng của vợ (chồng) người trực tiếp xác lập nghĩa vụ.

Loại chủ nợ thứ nhất có quyền lợi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất; song, trên thực tế, loại này không tồn tại: chủ nợ luôn có ít nhất một người mắc nợ, là vợ hoặc chồng, và người sau nàyü phải trả nợ bằng tài sản của mình. Loại chủ nợ thứ hai hầu như không có gì phải lo lắng trước việc chia tài sản chung: tài sản chia chỉ có thể đi vào khối tài sản riêng của vợ hoặc chồng và khối tài sản riêng đó cũng là vật bảo đảm cho việc trả nợ, như khối tài sản chung. Vậy, ta còn lại loại chủ nợ thứ ba: có khả năng việc chia tài sản chung có tác dụng làm cho các tài sản “đổ” dồn về khối tài sản riêng của một người và chủ nợ lại không có quyền yêu cầu kê biên tài sản riêng của người đó. Rõ ràng, việc chia tài sản chung được thực hiện theo kiểu đó sẽ đặt người mắc nợ ở trong tình trạng mất khả năng thanh toán đối với chủ nợ, dù vẫn có tài sản.

Điều kiện chung đối với các nghĩa vụ tài sản

Có thực, xác định về số lượng và đến hạn thực hiện. Luật chỉ nói rằng việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận (Điều 29 khoản 2). “Trốn tránh”, cụm từ đó cho phép nghĩ rằng nghĩa vụ tài sản trong khung cảnh của điều luật phải là một nghĩa vụ có thật, một nghĩa vụ chắc chắn, được pháp luật thừa nhận, không phải là một nghĩa vụ còn đang trong vòng tranh chấp. Một người kiện một người khác ra Toà án yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; trong lúc Toà án đang thụ lý vụ án, thì người bị kiện tiến hành chia tài sản chung theo hướng chuyển phần lớn tài sản chung cho vợ (chồng) mình. Người khởi kiện trong trường hợp này không thể kiện yêu cầu xem xét giá trị của vụ phân chia, do có sự chuẩn bị của bị đơn để đưa bị đơn vào tình trạng không có khả năng thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Lý do rất đơn giản: nếu thừa nhận rằng việc phân chia có tác dụng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường, thì coi như Toà án cũng đã đồng thời thừa nhận sự tồn tại của nghĩa vụ đó, trong khi thực ra, mọi chuyện vẫn còn đang trong vòng tranh cãi.

Không chỉ có thực, nghĩa vụ tài sản liên quan còn phải được xác định về số lượng. Nói phân chia nhằm “trốn tránh” thực hiện nghĩa vụ, ta liên tưởng đến một vụ phân chia có tác dụng làm cho khối tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bị hao hụt và không còn đủ để thực hiện nghĩa vụ đó. Muốn xác định một khối tài sản là còn đủ hay không đủ để thực hiện một nghĩa vụ, thì rõ ràng điều kiện tiên quyết là nghĩa vụ đó phải được biểu đạt bằng một con số, để mối quan hệ so sánh có thể được thiết lập.

Có cần thiết nghĩa vụ phải đến hạn thực hiện ? Không loại trừ khả năng việc chia tài sản chung được tiến hành nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện các nghĩa vụ sẽ đến hạn trong tương lai. Vấn đề là: chính ở thời điểm nghĩa vụ đến hạn mà trên cơ sở cân đối tài sản có - tài sản nợü, người ta mới biết được liệu một người có còn khả năng thanh toán hay không. Bởi vậy, trong logique của sự việc, ta nói rằng chừng nào quyền chủ nợ chưa đến hạn thực hiện, thì chủ nợ không có quyền nói rằng một vụ phân chia tài sản chung nào đó được thực hiện nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với mình. Tuy nhiên, không nhất thiết quyền chủ nợ phải đến hạn ở thời điểm vụ phân chia được thực hiện, thì chủ nợ mới có quyền kiện. Ta biết rằng có những trường hợp phân chia với mục đích lẫn tránh việc thực hiện những nghĩa vụ sắp đến hạn. Thế thì ở một thời điểm nào đó sau khi vụ phân chia được thực hiện xong, khi món nợ đến hạn, chủ nợ nợ có quyền kiện yêu cầu xem xét lại giá trị của vụ phân chia đó, với lý do vụ phân chia đã được thực hiện nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đối với mình.

Trốn tránh thực hiện nghĩa vụ

Tiêu chí xác định. Tiêu chí duy nhất là: việc phân chia tài sản chung phải nhằm làm suy giảm giá trị của khối tài sản dùng làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ. Tiêu chí này bao gồm hai yếu tố: yếu tố khách quan, nghĩa là có sự suy giảm giá trị của khối tài sản bảo đảm; yếu tố chủ quan, có thái độ tâm lý, ý định, toan tính của người có nghĩa vụ, cho thấy người này thực hiện hành vi làm suy giảm giá trị của khối tài sản bảo đảm với ý thức trốn tránh việc trả nợ.

Thế nào là “không được pháp luật công nhận”?

Giao dịch vô hiệu. Theo Nghị định đã dẫn, Điều 11, việc phân chia tài sản chung nhằm trốn tránh thực hiện nhgĩa vụ tài sản, thì bị Toà án tuyên bố vô hiệu. Với quy định này, việc vô hiệu hoá một vụ phân chia tài sản chung của vợ chồng không thể đương nhiên, mà nhất thiết phải có sự can thiệp của Toà án. Trong trường hợp Toà án tuyên bố vô hiệu việc phân chia, thì sự vô hiệu phát sinh hiệu lực đối với tất cả mọi người chứ không chỉ với nguyên đơn và bị đơn, như trong trường hợp vô hiệu cục bộ đương nhiên. Thế nhưng, như đã nói, trong điều kiện không có một quy định về thời hiệu cho các quyền khởi kiện loại này, thẩm phán có thể gặp khó khăn trong trường hợp thụ lý yêu cầu vô hiệu hoá những vụ phân chia tài sản chung đã được thực hiện xong từ rất lâu

Ở các nước tiền tiến, người làm luật ý thức được rằng việc bỏ sót các trường hợp cần chế tài hoặc quy định không đầy đủ về chế tài là khó tránh khỏi. Bởi vậy, luật thường dự kiến một thời hiệu khởi kiện chung áp dụng cho tất cả các trường hợp mà thời hiệu không được quy định rõ ràng, kể cả trường hợp mà thời hiệu không được quy định rõ ràng do chính biện pháp chế tài cũng không được quy định rõ: xem Nghĩa vụ.
. Vấn đề sẽ càng tế nhị hơn nữa trong trường hợp nghĩa vụ được xác lập và đến hạn ở những thời điểm rất xa về sau, so với thời điểm chia tài sản chung.

Điều kiện về hình thức

Phân chia theo thoả thuận

Thoả thuận bằng văn bản. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 29 khoản 1, việc chia tài sản chung phải được lập thành văn bản. Điều luật chắc chắn chỉ được áp dụng trong trường hợp giữa vợ và chồng có sự thoả thuận về cách chia. Nếu vợ và chồng không đồng ý với nhau về cách chia, thì không thể có chuyện vợ hoặc chồng ký vào văn bản phân chia một cách tự nguyện. Cần nhấn mạnh rằng luật chỉ đòi hỏi việc thoả thuận chia tài sản chung phải được lập thành văn bản, chứ không yêu cầu lập văn bản trước cơ quan công chứng, chứng thực.

Các nội dung chủ yếu của văn bản bao gồm:

- Lý do chia tài sản;

- Phần tài sản chia (bao gồm bất động sản, động sản, các quyền tài sản); trong đó cần mô tả rõ những tài sản được chia hoặc giá trị phần tài sản được chia;

- Phần tài sản còn lại không chia, nếu có;

- Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung;

- Các nội dung khác, nếu có.

Phân chia bằng con đường tư pháp

Phân chia bằng con đường tư pháp trong trường hợp nào ?. Việc phân chia bằng con đường tư pháp được luật dự kiến cho trường hợp giữa vợ và chồng không có được sự thoả thuận cần thiết

Có thể vợ và chồng đạt được sự thoả thuận về việc nên chia nhưng không thoả thuận được về xác định khối tài sản chia. Hoặc vợ và chồng thoả thuận được về việc nên chia và về việc xác định khối tài sản chia, nhưng không thoả thuận được về cách chia; hoặc vợ và chồng thậm chí không thoả thuận được về việc nên hay không nên chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
. “Không có được sự thoả thuận cần thiết” bao hàm cả trường hợp “không thể có sự thoả thuận” do vợ hoặc chồng vắng mặt, mất tích hoặc ở trong tình trạng không thể nhận thức được hành vi của mìnhü. Thực ra, ngay cả trong trường hợp vợ hoặc chồng không nhận thức được hành vi của mình mà có người giám hộ, ta không biết chắc liệu, trong khung cảnh của luật thực định, việc chia tài sản chung có thể được thực hiện bằng con đường thoả thuận giữa chồng (vợ) và người giám hộ của vợ (chồng) không nhận thức được hành vi của mình. Luật viết chưa có quy định rõ ràng ở điểm này.

Trong trường hợp vợ hoặc chồng ở trong tình trạng bị hạn chế năng lực hành vi, dường như người làm luật muốn rằng người bị hạn chế năng lực hành vi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật để tham gia vào việc thoả thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng, bởi vì rõ ràng, phân chia tài sản chung không phải là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Vấn đề, dẫu sao, có thể trở nên rắc rối, nếu người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi lại là vợ hoặc chồng của đương sự. Tất nhiên, người bị hạn chế năng lực hành vi không thể xin phép người đại diện để phân chia tài sản chung, rồi sau đó, lại thoả thuận với chính người đại diện này về nội dung của việc phân chia. Hẳn, người bị hạn chế năng lực hành vi phải yêu cầu người đại diện từ bỏ vai trò đại diện của mình, để Toà án có thể chỉ định một người đại diện khác

Khi người đại diện khác được chỉ định, thì người bị hạn chế năng lực hành vi tự mình tiến hành việc phân chia với vợ (chồng) mình, nhưng phải được sự đồng ý của người đại diện.
.

Trường hợp phân chia tài sản chung theo yêu cầu của chủ nợ riêng. Khi thay mặt người mắc nợ để yêu cầu phân chia tài sản chung, chủ nợ chỉ thực hiện các quyền của người mắc nợ; bởi vậy, việc phân chia tài sản chung theo sáng kiến của chủ nợ của vợ hoặc chồng không nhất thiết phải được thực hiện bằng con đường tư pháp. Chủ nợ có thể thay người mắc nợ yêu cầu phân chia tài sản chung của vợ chồng; nếu vợ (chồng) của người mắc nợ đồng ý, thì các bên có thể thoả thuận về việc phân chia; nếu vợ (chồng) của người mắc nợ không đồng ý, thì chủ nợ có thể yêu cầu phân chia bằng con đường tư pháp.

Điều kiện về nội dung

Ấn định khối tài sản chia

Phân chia theo thoả thuận. Việc ấn định khối tài sản chia trong trường hợp phân chia theo thoả thuận không phức tạp. Vợ chồng có quyền tự do xác định nội dung khối tài sản chia theo ý mình: hoặc chia toàn bộ tài sản chung hiện hữu, hoặc chỉ chia một phần tài sản chung.

Phân chia bằng con đường tư pháp. Việc ấn định khối tài sản chia trong trường hợp phân chia bằng con đường tư pháp tỏ ra không đơn giản. Nếu giữa vợ và chồng đã có sự thoả thuận về nội dung khối tài sản chia nhưng không có sự thoả thuận về cách chia, thì thẩm phán có thể tạm yên tâm khi thực hiện công việc xét xử của mình: vấn đề chỉ là chia như thế nào. Trái lại, nếu vợ và chồng muốn chia nhưng lại không thoả thuận được về nội dung khối tài sản chia (chẳng hạn, người chỉ muốn chia một phần, người kia muốn chia toàn bộ; người muốn chia một số tài sản này, người muốn chia một số tài sản khác), thì thẩm phán sẽ gặp khó khăn trong việc xác định khối tài sản chia. Tương tự, trong trường hợp một người muốn chia tài sản chung nhưng người khác lại không muốn: ngay nếu như xác định được rằng người muốn chia hoàn toàn có lý do chính đáng để yêu cầu chia, thì thẩm phán vẫn còn phải đứng trước vấn đề chia bao nhiêu thì vừa và chia những thứ nào. Có vẻ như việc phân chia tài sản chung bằng con đường tư pháp chỉ được dự kiến trong trường hợp thứ nhất nêu trên, nghĩa là khi vợ chồng đã thoả thuận được về nội dung khối tài sản chia nhưng không thoả thuận được về cách chia. Tất nhiên, khi quyết định chia như thế nào trong trường hợp này, thẩm phán phải dựa vào công sức đóng góp: việc chia tài sản được thực hiện như trong trường hợp ly hôn.

Cấu tạo các phần tài sản chia

Vấn đề cấu tạo các phần tài sản chia chỉ được đặt ra sau khi vấn đề ấn định khối tài sản chia đã được giải quyết xong.

a. Phân chia theo thoả thuận

Không áp dụng luật chung. Các nguyên tắc bình đẳng về hiện vật và bình đẳng về giá trị trong phân chia tài sản chung, chi phối việc chia tài sản thuộc sở hữu chung theo phần, không nhất thiết được áp dụng cho việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, bởi, như đã nói, cả phần quyền của vợ, chồng trong khối tài sản đem chia có thể chỉ được xác định sau khi đã chia xong tài sản. Ta phân biệt cách thức cấu tạo tài sản chia tuỳ theo việc phân chia được tiến hành trong điều kiện vợ chồng còn hay không còn chung sống trên thực tế.

Phân chia trong điều kiện vợ chồng không sống chung trên thực tế. Việc phân chia có thể được thực hiện theo thoả thuận hoặc bằng con đường tư pháp. Ly hôn thực tế, vợ chồng thường tiến hành chia tài sản chung như trong một vụ ly hôn thực sự, nghĩa là trên cơ sở thanh toán phần của mỗi người dựa theo công sức đóng góp. Bởi vậy, việc cấu tạo các phần tài sản chia được thực hiện dựa theo các quy tắc về cấu tạo tài sản chia sau khi ly hôn.

Phân chia trong điều kiện vợ chồng vẫn tiếp tục cuộc sống chung. Phần tài sản chia trong trường hợp này sẽ được cấu tạo như thế nào để vợ, chồng có thể nhận được số tài sản riêng cần thiết cho việc thực hiện những dự án của mình. Các tài sản bằng hiện vật sẽ không được chia nhỏ mà được cấp trọn cho người có nhu cầu khai thác tài sản. Trong chừng mực đó, ta nói rằng việc phân chia được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng về giá trị. Việc cấu tạo các phần tài sản chia đồng thời cũng là việc tiến hành phân chia. Ví dụ, khối tài sản chia được xác định gồm hai căn nhà (có thể có giá trị không ngang nhau); vợ muốn nhận được một căn; chồng cũng muốn nhận được một căn; khối tài sản chia được phân thành hai phần, mỗi phần gồm một căn nhà và người muốn nhận căn nhà nào, sẽ nhận đúng phần có căn nhà ấy. Cũng có trường hợp các đương sự thoả thuận về việc trích và cấp hẳn cho một người một số tài sản nhất định bằng hiện vật hoặc bằng tiền mặt; người còn lại không nhận tài sản nào.

b. Phân chia bằng con đường tư pháp

Việc cấu tạo các phần tài sản chia bằng con đường tư pháp có lẽ được thực hiện bằng cách vận dụng các quy định liên quan đến việc phân chia tài sản chung bằng con đường tư pháp sau khi ly hôn. Tất nhiên, nếu việc phân chia được tiến hành trên cơ sở có lý do chính đáng, thì việc cấu tạo các phần tài sản chia cũng được thực hiện trên cơ sở có xem xét lý do chính đáng ấy. Ví dụ, nếu người muốn phân chia đang cần trả một món nợ riêng, thì phần của người này nên có một số tiền đủ để trả số nợ đó; người muốn chia vì có nhu cầu kinh doanh nên được chia những tài sản đầu tư phù hợp hoặc một số tiền cần thiết để mua sắm những tài sản đầu tư phù hợp đó;...

Giới hạnphân tích. Ta sẽ ghi nhận những hệ quả đáng chú ý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng và trong quan hệ giữa vợ chồng và cơ quan thuế. Sau đó, ta phân tích các quy định khá đặc biệt trong Nghị định số 70, đã dẫn, liên quan đến việc khôi phục chế độ tài sản chung. Thế nhưng trước hết cần chú ý đến các giải pháp của luật đối với vấn đề xác định thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung.

Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung

Luật. Theo Nghị định số 70-CP, đã dẫn, Điều 7, thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung được xác định như sau:

1. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng không xác định rõ thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản, thì hiệu lực được tính từ ngày, tháng, năm lập văn bản;

2. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của vợ chồng, thì hiệu lực được tính từ ngày xác định trong văn bản thoả thuận; nếu văn bản không xác định ngày có hiệu lực đó, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực;

3. Trong trường hợp văn bản thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, thì hiệu lực được tính từ ngày văn bản đó được công chứng, chứng thực;

4. Trong trường hợp Toà án cho chia tài sản chung theo quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị định này, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày quyết định cho chia tài sản chung của Toà án có hiệu lực pháp luật.

Hiệu lực đối với tài sản chia

Khả năng chuyển hoá trở lại thành tài sản chung. Tài sản chia trở thành tài sản riêng của người được chia và chủ sở hữu có trọn quyền sử dụng, định đoạt đối với tài sản đó.

Tuy nhiên, trong điều kiện không có lý thuyết tài sản thay thế, giá trị của quy tắc này bị giảm sút đáng kể: tài sản chia chỉ được coi là của riêng chừng nào còn tồn tại dưới hình thức biểu hiện vật chất được ghi nhận lúc phân chia

Trừ một số trường hợp đặc thù, như trường hợp tài sản được chế biến: tài sản riêng được chế biến tiếp tục là tài sản riêng do hiệu lực của sự chuyển hoá vật chất. Cũng có thể áp dụng giải pháp này cho trường hợp tài sản được góp vào công ty, như đã nói, nếu ta xem việc góp vốn vào công ty là một vụ chuyển hoá pháp lý đối với tài sản dùng làm vật góp vốn.
. Giả sử tài sản được bán, thì tiền bán tài sản lại trở thành tài sản chung do áp dụng quy tắc thu hút về khối tài sản chung những tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Khó có thể tin rằng đó là giải pháp phù hợp với ý chí của người làm luật, bởi việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích tăng cường và duy trì sức mạnh của khối tài sản riêng và điều đó cần thiết để bảo đảm cơ sở vật chất cho việc thực hiện những dự án riêng của vợ hoặc chồng. Có thể nhận thấy rõ hơn ý chí của người làm luật đối với việc củng cố khối tài sản riêng sau khi chia tài sản chung thể hiện qua quy định theo đó, hoa lợi, lợi tức từ tài sản được chia cũng là tài sản riêng. Thế nhưng, làm thế nào bảo đảm được sự toàn vẹn của khối tài sản riêng trước lực hút của khối tài sản chung mà không cần lý thuyết tài sản thay thế ?

Đối với hoa lợi, lợi tức từ tài sản chia. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 30, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của mỗi người. Đây là quy tắc duy nhất của Luật làm xáo trộn hệ thống quy tắc chung về thành phần cấu tạo của các khối tài sản của vợ, chồng. Giả sử vợ chồng không tiến hành chia tài sản chung, thì các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng chỉ có thể là tài sản chung.

Với giải pháp của Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, ta nói rằng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng, trên nguyên tắc, tiếp tục là tài sản chung; riêng hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản trở thành của riêng do được chia trong thời kỳ hôn nhân là của riêng. Vậy có nghĩa rằng về phương diện chỉ định khối tài sản thụ hưởng hoa lợi, lợi tức, ta có đến hai khối tài sản riêng: 1. Khối tài sản riêng theo luật chung (Điều 27 khoản 1), có hoa lợi, lợi tức là của chung; 2. Khối tài sản riêng do phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, có hoa lợi, lợi tức là của riêng (Điều 30). Chắc chắn đây cũng không phải là giải pháp phù hợp với ý chí của người làm luật. Khi xây dựng Điều 30, có thể người làm luật tập trung sự chú ý vào các tài sản riêng có nguồn gốc từ việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không còn nhớ đến các tài sản riêng thực sự

Khi hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, những người soạn thảo Nghị định số 70/2001-NĐ-CP ngày 03/10/2001 tiếp tục tạm gác vấn đề hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng và chỉ giải quyết vấn đề các hoa lợi, lợi tức gắn liền với các tài sản chung mà không được chia.
. Chưa kể đến những khó khăn trong việc phân biệt hoa lợi, lợi tức từ tài sản được chia với các loại tài sản khác, nếu không có sổ sách kế toán để theo dõi.

Định đoạt tài sản. Có vẻ như người làm luật muốn rằng tài sản chia thực sự là của riêng người được chia, thậm chì riêng hơn cả các tài sản gọi là riêng theo quy định của luật chung. Điều này đã được thể hiện trong các giải pháp cho các vấn đề sở hữu hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản chia và thực hiện nghĩa vụ bảo quản tài sản chia, đã được ghi nhận trên đây. Trong logique của suy nghĩ, ta thừa nhận rằng người được chia tài sản có quyền tự mình định đoạt tài sản mà không cần có sự đồng ý của vợ (chồng).

Các hệ quả khác

Đối với các khối tài sản được xây dựng theo luật chung

Khối tài sản chung tiếp tục phát triển. Không thể chia những tài sản sẽ có trong tương laiï, cũng không thể thoả thuận đi ngược lai so với những nguyên tắc chi phối thành phần cấu tạo của các khối tài sản trong thời kỳ hôn nhân, vơ chồng không thể, bằng việc chia tài sản chung, chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng do luật quy định. Các quy tắc liên quan vẫn tiếp tục được áp dụng: tài sản được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung; thu nhập do lao động, hoa lợi, lợi tức từ tài sản (trừ tài sản được chia), lợi tức trúng thưởng, là tài sản chung; tài sản được tặng cho, di tặng chung là tài sản chung;

Theo Nghị định số 70/2001-NĐ-CP ngày 03/10/2001 Điều 8 khoản 2, sau khi vợ chồng tiến hành phân chia tài sản chung (dù chỉ phân chia một phần), thì thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác. Với quy định đó, thì việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân còn có tác dụng làm cho các quan hệ về tài sản của vợ chồng sau đó chịu sự chi phối của một chế độ mới. Điều đáng chú ý là trước đó, tại Điều 8 khoản 1, các tác giả của Nghị định lại quyết định rằng các hoa lợi, lợi tức gắn liền với các tài sản chung chưa chia vẫn thuộc khối tài sản chung. Điều đó có nghĩa rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân không làm thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản: một số tài sản vẫn tiếp tục chịu sự chi phối của chế độ được xây dựng trong luật chung. Nói tóm lại, trong khung cảnh của các quy định của Luật và của Nghị định, vợ chồng mà tiến hành chia tài sản chung, thi sau đó sẽ chịu sự chi phối của hai chế độ tài sản. Dường như khi xây dựng các điều luật ấy, người làm luật liên tưởng đến các vụ phân chia giữa vợ chồng sống ly thân thực tế hoặc phân chia để tạo điều kiện cho vợ hoặc chồng tiến hành đầu tư kinh doanh riêng. Không nên quên rằng việc phân chia tài sản chung có thể được thực hiện chỉ nhằm trả một món nợ riêng. Sẽ có nhiều người thực sự bất ngờ nếu biết rằng, sau khi chia tài sản chung để trả một món nợ riêng, thì tiền lương, thu nhập do lao động của mình không còn là tài sản chung nữa, mà là tài sản riêng do quy định của pháp luật. Chỉ có thể nhận xét rằng quy định của Điều 8 khoản 2 là một sự nhầm lẫn.
... Ngay nếu như việc chia tài sản chung có đối tượng là tất cả các tài sản chung hiện hữu, khiến cho khối tài sản chung rỗng không về mặt vật chất, thì ngay sau đó, khối tài sản này có thể được làm “giàu” trở lại bằng các tài sản mới. Ta nói rằng khối tài sản chung là một thực thể pháp lý tồn tại độc lập với sự tồn tại của các yếu tố vật chất cụ thể của khối đó.

Khối tài sản riêng thông thường cũng tiếp tục phát triển và tiếp tục... bị thu hút. Các tài sản có được trước khi kết hôn và những tài sản được tặng cho riêng, được thừa kế riêng tiếp tục là tài sản riêng. Sau khi chia tài sản chung, nếu có các tài sản mới được tặng cho riêng, thừa kế riêng, thì các tài sản này cũng đi vào khối tài sản riêng thông thường đó. Khối tài sản riêng thông thường tiếp tục chịu sự chi phối của các quy định thuộc luật chung: hoa lợi, lợi tức từ tài sản thuộc khối tài sản chung, như đã nói; nếu tài sản riêng được bán và tiền bán được dùng để mua một tài sản mới, thì tài sản mới là của chung.

Đối với việc xác định công sức đóng góp

Tính chất “tạm ứng” của việc chia tài sản chung. Như đã nói, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có thể được thực hiện chỉ nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho vợ hoặc chồng trong việc xác lập các giao dịch riêng. Ơí thời điểm phân chia, người được chia có thể nhận được số tài sản có giá trị không tương xứng với công sức đóng góp của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng. Giả sử vợ hoặc chồng được chia nhiều hơn phần đóng góp của mình vào khối tài sản chung. Ta nói rằng khối tài sản chung bị hao hụt do hệ quả của việc phân chia nhằm tích tụ khối tài sản riêng của vợ (chồng); người còn lại có thể ghi nhớ phần hao hụt đó để, khi hôn nhân chấm dứt, yêu cầu xác định lại cho hợp lý phần của vợ (chồng) mình trong khối tài sản chung được chia một cách dứt khoát.

Đặt vấn đề. Thực ra, các tác giả của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không hề khẳng định rằng việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có tác dụng thay đổi chế độ tài sản của vợ chồng

Bởi vậy, mới có quy định theo đó, các tài sản chung chưa chia vẫn thuộc khối tài sản chung của vợ và chồng.
. Thế nhưng, Nghị định số 70-CP ngày 03/10/2001, đã dẫn, khi quy định chi tiết việc thi hành các điều luật liên quan đến việc phân chia tài sản chung lại chính thức đề cập đến khả năng của vợ chồng “trở lại” với chế độ tài sản chung sau một thời gian chia tài sản chung. Trong các phân tích sau đây, chỉ các quy định tại Nghị định đã dẫn được quan tâm.

Khái niệm

Ngưng áp dụng các quy định đặc biệt. Nghị định số 70-CP, đã dẫn, Điều 9 khoản 1 quy rằng trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung và sau đó muốn khôi phục chế độ tài sản chung, thì vợ chồng phải thoả thuận bằng văn bản. Có hai cách hiểu đối với cụm từ “khôi phục chế độ tài sản chung” trong Nghị định.

- Đó là giao dịch có tác dụng chuyển những tài sản trước đây được chia cho vợ hoặc chồng thành tài sản chung; hoặc

- Đó là giao dịch có tác dụng tuyên bố chấm dứt hiệu lực của các quy định áp dụng riêng cho trường hợp vợ và chồng đã tiến hành phân chia tài sản chung. Tài sản đã được chia vẫn tiếp tục là tài sản riêng, nhưng

+ Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 không còn được áp dụng; bởi vậy, hoa lợi, lợi tức gắn liền với tài sản được chia không còn là của riêng mà trở thành tài sản chung, do áp dụng luật chung về quan hệ tài sản giữa vợ chồng

+ Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 70-CP, đã dẫn, không còn được áp dụng; bởi vậy, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập khác không còn là của riêng mà trở thành tài sản chung, cũng do áp dụng luật chung về quan hệ tài sản giữa vợ chồng

Có lẽ cách hiểu thứ hai phù hợp nhất với suy nghĩ của người soạn thảo Nghị định số 70-CP đã dẫn. Bởi vì, nếu nói rằng khôi phục chế độ tài sản chung là chuyển các tài sản đã được chia thành của chung, thì suy cho cùng, người ta không cần tạo ra một chế định mới làm gì: luật đã có các quy định liên quan đến sự thoả thuận của vợ chồng về việc coi một tài sản nào đó là của chung; đã có quy định thừa nhận quyền của vợ (chồng) nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Chỉ cần áp dụng các quy định đó, người ta có thể chuyển một tài sản riêng thành một tài sản chung...

Điều kiện

Nội dung

Sự thoả thuận của vợ chồng. Khác với việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, việc trở lại với chế độ tài sản chung chỉ có thể được thực hiện một khi có sự đồng ý của cả vợ và chồng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý, người còn lại không có quyền kiện yêu cầu khôi phục chế độ tài sản chung bằng con đường tư pháp.

Lý do. Theo Nghị định số 70-CP, đã dẫn, Điều 9 khoản 1 điểm a, việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng phải được vợ chồng thoả thuận bằng văn

0