Cầy rái cá
, tên khoa học là Cynongale lowei, thuộc họ Cầy Viverridae, bộ Ăn thịt Carnivora, lớp thú, là một loại cầy bán thủy sinh trong các khu rừng, chủ yếu là vùng đất thấp, sông ngòi và các khu vực đầm lầy ở khu vực Đông Nam Á. được phát hiện lần đầu năm 1933. ...
, tên khoa học là Cynongale lowei, thuộc họ Cầy Viverridae, bộ Ăn thịt Carnivora, lớp thú, là một loại cầy bán thủy sinh trong các khu rừng, chủ yếu là vùng đất thấp, sông ngòi và các khu vực đầm lầy ở khu vực Đông Nam Á. được phát hiện lần đầu năm 1933.
có môi trắng. Trên môi mập xề ra và có nhiều ria dài cứng. Mũi mở hướng lên phía trên. Tai nhỏ tròn trễ xuống hai bên đầu. Mũi và tai có thể đậy kín khi lặn xuống nước. Thân hình trụ. Bộ lông dày màu nâu, nhưng mặt trên màu da bò nhạt, mút lông xám và hoa râm, chân có màng bơi, đuôi ngắn.
là loài ăn đêm. Thức ăn của chúng chủ yếu từ nước, bao gồm cá, cua, ốc, động vật thân mềm nước ngọt. cũng có thể trèo cây để bắt thú nhỏ, chim và ăn hoa quả.
sinh sống và kiếm ăn ở nước và ven bờ nước, phân bố chủ yếu ở bán đảo Thái Lan - Mã Lai, Sumatra, Borneo, bắc Việt Nam. Một vài cá thể được tìm thấy cả ở Vân Nam, Trung Quốc.
Tại Việt Nam, cầy rái cá chỉ mới được phát hiện ở Ba Bể, Cao Bằng. Chưa có tư liệu cho thấy cầy rái cá được phát hiện ở các vùng khác.
Mỗi lứa, cầy rái cá đẻ hai hoặc ba con.